Thế là tôi đã thực hiện được ý định đi du lịch tại Iran trong mùa xuân, nhân dịp lễ hội hoa hồng và nước hoa hồng lần 4 tổ chức tại thành phố Kashan, tỉnh Isfahan. Đây là một trong những sáng kiến nhằm thu hút du khách vì số khách đến Iran chỉ chiếm 0,1% tổng số du khách của thế giới dù quốc gia này vẫn tự hào là một trong 10 nước có nhiều di tích lịch sử nhất...
Chuyến xe nghẹt thởĐúng 8g30 sáng thứ sáu 21-5, đoàn chúng tôi gồm 34 người lớn và trẻ em với 10 quốc tịch khác nhau có mặt đầy đủ tại điểm tập kết nhưng chẳng thấy ông trưởng đoàn Tabatabai, phó chủ tịch phụ trách quan hệ quốc tế của Ủy ban phát triển du lịch Kashan, đâu.
Chúng tôi khá sốt ruột nhưng những bạn đồng hành người Iran thì bình tĩnh dùng trà, cà phê đem theo từ nhà. Mãi sau trưởng đoàn mới xuất hiện, nhưng do xe buýt quá nhỏ, phải đổi xe khác nên giờ khởi hành chậm lại một giờ. Ra khỏi Tehran, ông Tabatabai làm cả đoàn ngạc nhiên khi thông báo chúng tôi sẽ đến Natanz, phía nam Kashan, hôm sau mới đi Kashan với lý do Kashan rất đông khách trong ngày thứ sáu. Đường đi như thế sẽ thành xa gần gấp đôi!
Quá trưa chúng tôi đến Natanz, thị trấn này chỉ có duy nhất một khách sạn đón khách nước ngoài là Hotel Saraban, phòng ốc không được sạch và nhân viên chỉ biết tiếng Farsi. Phòng của tôi có một tivi đen trắng có hình nhưng không có tiếng, một tủ lạnh khá lớn bên trong không chứa gì và tuy là phòng đôi nhưng chỉ có đúng một chiếc khăn mặt. Bữa trưa được dọn ngoài sân khách sạn thoáng đãng với nhiều bồn hoa và cổ thụ.
Trưởng đoàn nói sau khi ăn trưa ai muốn uống trà thì có thể ghé qua trà thất bên kia sông, sau đó sẽ lên đường đến Abyaneh lúc 15g30. Chúng tôi tranh thủ lên phòng rửa mặt, khi xuống tới sảnh thì xe đã đi mất dù chưa tới giờ! Chắc là đoàn chưa thể đi xa, chúng tôi gọi taxi để rượt theo, may gặp một anh tài xế biết võ vẽ tiếng Anh...
Làng cổ AbyanehAbyaneh nằm quãng giữa Natanz và Kashan, trên sườn núi Karkas, là một trong những ngôi làng xây bằng gạch bùn và đất sét cổ nhất Iran. Dù cách quốc lộ đầy nắng và bụi không xa, bước vào ngôi làng tĩnh mịch này tôi vẫn có cảm giác như mình vừa lùi lại vài thế kỷ. Abyaneh có nhiều điểm tham quan thú vị như Jameh Mosque từ thế kỷ 14, thành cổ và những lâu đài hoang phế nằm trơ trọi trên đỉnh đồi, nhưng dù thu hút nhiều khách du lịch trong nước và nước ngoài, trong làng không có chút tiện nghi nào cho khách.
Trà thất NatanzQuay về Natanz, chúng tôi đi loanh quanh trên phố chính mới hay trà thất bên kia “sông” mà ông Tabatabai giới thiệu chính là cửa hàng giải khát ngay cạnh khách sạn, phía bên kia con mương. Khách thuộc đủ mọi lứa tuổi, nam, nữ, đến quán uống trà, hút ống điếu, ăn kem và “faloudeh”- một món chè cho mùa nóng làm bằng miến gạo, ăn với đá bào, xirô và nước hoa hồng.
Chủ quán lấy nước từ mương nấu trà, đổ vào bình điếu, khách người thì múc nước lên uống, người khoát nước rửa từ mặt mũi tay chân đến giày dép, tiện lợi vô cùng. Có hai cô sinh viên đến làm quen, một cô đang học công nghệ thông tin ở Đại học Nantaz, biết tiếng Anh, cô tưởng tôi là người Nhật nên hỏi làm sao để có thể sang đó làm việc. Khi tôi nói mình là người Việt Nam, các cô bỏ đi. Theo thống kê của Tổ chức Thanh niên Iran thì mỗi năm có hơn 320.000 sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm, đối với nữ sinh viên lại càng khó khăn hơn.
Khi gặp lại đoàn, tôi mới hay ông Tabatabai đã đổi chương trình, dẫn đoàn đi thăm Jameh Mosque và đi ngay sau khi chúng tôi vừa rời bàn ăn. Vì Natanz không có nhà hàng nào khác nên đoàn chúng tôi lại dùng bữa khuya trong khách sạn với rau sống, sữa chua và lavash - bánh mì không men, mỏng như bánh đa của mình, ăn hơi giống bánh mì của người Ấn Độ - và nước trà. Nhưng mọi người đều quá mệt sau những quãng đường dài dưới nắng sa mạc gay gắt nên chẳng mấy quan tâm đến chuyện ăn uống.
Kashan - thành phố của dĩ vãngCó đi trong sa mạc khô cằn mới thấy hết được vẻ đẹp và sự quí báu của màu xanh ốc đảo. Đến trưa Kashan dần hiện ra trước mắt chúng tôi. Nhìn từ xa, thành phố với những hàng cây xanh trông đẹp như một viên ngọc bích dưới ánh mặt trời chói chang. Tương truyền Kashan do chính Zobeida, hoàng hậu của vua Harũn-ar-Rashĩd trong Ngàn lẻ một đêm, lập nên. Vào thế kỷ 16, các vua triều Safavid sống tại Kashan thường xuyên hơn là tại thủ đô Isfahan, đến thế kỷ 19 thành phố này là một trong vài trung tâm dệt và mua bán thảm lớn nhất thế giới, nhưng từ sau Thế chiến thứ nhất thì Kashan suy tàn dần.
Khi xe chạy qua một kiến trúc xây bằng gạch đỏ có hình cái bát úp, ông trưởng đoàn cho biết đó là hầm chứa nước đá của thành phố khi xưa. Chắc Kim Dung đã dựa vào chi tiết này để vẽ nên mối tình của Hư Trúc với công chúa Tây Hạ trong hầm nước đá. Đến Trung tâm Văn hóa và thủ công mỹ nghệ Kashan chúng tôi được xem các nghệ nhân lớn tuổi biểu diễn dệt nhung, gấm trên những khung dệt thủ công. Nhiều người trong đoàn muốn mua những tấm gấm rất đẹp và tinh xảo bày trong tủ kính nhưng người quản lý đã đi đâu mất.
Lễ hội hoa hồng!Nhiều người trong đoàn đã từng đến Kashan, đi chuyến này chỉ vì muốn xem lễ hội hoa hồng nhưng cả thành phố chẳng thấy có dấu hiệu gì của lễ hội. Chỉ khi ghé tham quan và ăn trưa tại Xí nghiệp chiết xuất nước hoa hồng Iran Golab, chúng tôi mới được thấy vài poster giới thiệu lễ hội.
Ông trưởng đoàn khẳng định lễ hội chính được tổ chức ở vườn Fin. Chúng tôi ghé qua đó trên đường về nhưng khi đến nơi thì đã chiều tối, vườn sắp đến giờ đóng cửa. Được xây dựng làm hành cung của Shah Abbas I (Abbas vĩ đại) vào cuối thế kỷ 16, vườn Fin là hình ảnh của vườn địa đàng theo sự tưởng tượng của người Ba Tư, là một quần thể gồm các dinh thự trang trí lộng lẫy, vườn hoa, vườn cây ăn trái và nhiều hồ nước có vòi phun tự động.
Nhưng khắp vườn Fin tuyệt không có một dấu hiệu nào của lễ hội hoa hồng, đến một bông hồng cũng không, ông trưởng đoàn cũng chẳng buồn giải thích. Trên đường về Tehran, ông Tabatabai phát cho mỗi người một tờ chương trình các tour sắp tới, trong đó cũng có mục dành cho khách góp ý để nâng cao chất lượng nhưng có lẽ do lạc quan nên chỉ chừa đúng ba hàng. Ông bạn cùng đoàn người Ai Cập viết tràn lan khắp tờ giấy, còn tôi mệt quá nên chỉ mong về đến nhà an toàn trước nửa đêm.
<Nguồn: TST>