Đến với tuyến du lịch huế đầy những cuốn hút và những điều kỳ bí, bạn đừng quên ghé thăm lăng Vua Minh Mạng, vị vua tài giỏi của vương triều nhà Nguyễn…
Như chúng ta đã biết, triều Đại nhà Nguyễn kéo dài hơn 140 năm, bắt đầu từ vua Gia Long và đến đời vua Bảo Đại là kết thúc. Vua Minh Mạng là vị vua thứ hai trong tổng số 13 vị vua của triều đại nhà Nguyễn. Minh Mạng tên húy là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên Nguyễn Phúc Kiếu, là hoàng tử thứ tư của vua Gia Long và Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu Trần Thị Đang. Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi, tức 25 tháng 5 năm 1791 tại làng Tân Lộc.
Con đầu của vua Gia Long là Hoàng tử Cảnh, mất sớm vào năm 1801. Triều đình có người đề nghị cho con của Hoàng tử Cảnh nối ngôi để giữ đúng dòng đích, nhưng Gia Long không đồng ý. Năm 1815, Nguyễn Phúc Đảm được phong Hoàng Thái Tử và từ đó ở trong điện Thanh Hòa để quen việc trị nước. Minh Mạng lên ngôi năm 1820.
Vua Minh Mạng có khoảng 5 đến 6 trăm bà vợ và 142 người con gồm 78 hoàng nam và 64 công chúa mặc dầu ông chỉ hưởng dương 51 tuổi. Bình nhật, khi nghỉ ngơi, vua có 5 bà hầu hạ: một là vấn thuốc têm trầu, một bà quạt, một bà đấm bóp, một bà ru và một bà để sai vặt. Mỗi đêm vua cho Thái giám gọi 5 bà vào hầu, mỗi bà một canh. Hết năm canh thì danh sách 5 bà được giao cho Tôn Nhơn Phủ giữ để tiện theo dõi việc khai hoa nở nhụy của các bà sau này. Có một bào thuốc bổ dương mang tên “ Minh Mạng thang” được thầy thuốc căn cứ vào thể chất và sinh hoạt của ông để làm ra thang thuốc rượu. Hoàng hậu của vua Minh Mạng là Tả Thiên Nhơn Hoàng hậu húy Hồ Thị Hoa.
Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựng Sơn lăng cho mình. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng của thành phố Huế. Nhưng phải ròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Kê thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế cho các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên. Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu. Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc.
Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh và đột ngột băng hà vào tháng 1 năm 1841, hưởng dương 51 tuổi. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi và chỉ một tháng sau (tháng 2 năm 1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất.
Lăng Minh Mạng nằm dưới chân núi Cẩm Kê (xã Thủy Bằng, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế) được xây dựng trên diện tích 28ha bao gồm nhiều kiến trúc khác nhau. Nhưng khi đến đây hỏi về nơi chôn cất thi hài Vua Minh Mạng thì ai nấy, kể cả những người dân trong vùng lẫn những người phụ trách coi sóc lăng tẩm, đều không biết.
Trong các tài liệu ghi lại về lịch sử của triều Nguyễn mà chúng tôi tìm thấy tại các hiệu sách và các lăng tẩm khác ở Huế đều không nhắc đến nơi chôn cất Vua Minh Mạng cũng như kho báu của ông.
Thời Vua Minh Mạng (1820 - 1840) là thời kỳ hưng thịnh nhất của vương triều nhà Nguyễn. Về sau, khi ông qua đời, toàn bộ những thông tin liên quan đến kho tàng này đều theo ông về với lòng đất. Không còn một ai biết được chút manh mối nào về những căn hầm bí mật này.
Các vị vua của triều Nguyễn sau này một phần vì không muốn làm kinh động tới tiên đế, một phần vì thời thế thay đổi nên cũng không còn chuyện chôn cất vàng bạc và đả động gì tới những tài sản mà Vua Minh Mạng trước đó đã giấu đi.
Sách Đại Nam nhất thống chí (tập Kinh sư), Đại Nam thực lục và Đại Nam Điển Lệ cho biết, kho tàng của triều Nguyễn dưới thời Gia Long gọi là Nội Đồ Gia, được thiết lập ở phía tả của Hưng Khánh thuộc Tử Cấm Thành, qua năm đầu thời Minh Mạng được đổi tên là Nội Vụ Phủ.
Cơ quan này quản lý 7 kho với 7 loại vật hạng khác nhau, trong đó kho vàng bạc là quan trọng nhất. Mỗi kho có 12 người chủ thủ canh giữ rất cẩn mật. Các kho được triều đình cho kiểm kê đầy đủ, nghiêm ngặt và thanh tra chặt chẽ. Riêng hầm chứa vàng bạc ở kho này đã chứa đến 200.000 lượng vàng bạc vào năm 1836.
Vào cuối năm 1838, Vua Minh Mạng cho rằng các nhân viên làm việc ở cơ quan ấy “đi lại ồn ào” gần nơi cung cấm nên nhà vua cho dời Nội Vụ Phủ ra khỏi Tử Cấm Thành và thiết lập tại khu vực bên trái Hoàng Thành (tức là khuôn viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật ngày nay).
Nhà vua giao cho Thống chế Mai Công Ngôn điều khiển 2.000 biền binh làm công việc dời kho này. Cẩn thận hơn, Vua Minh Mạng đã chỉ định các đại thần cao cấp nhất trong triều đình là Phạm Hữu Tâm, Nguyễn Tăng Minh, Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên thay nhau hàng ngày đến giám sát công việc dời kho để của kho khỏi bị bỏ sót và thất thoát.
Hầm vàng Vua Minh Mạng?Theo đó, vào năm Thành Thái thứ 11 (1899), Khâm sứ đại thần Boulloche sau khi nhận được tin báo của Hoằng Trị quận vương Hồng Tố nói đời Vua Minh Mạng và Thiệu Trị có chôn nhiều bạc trong Đại Nội đã phái quan hội đồng (Quận vương Hồng Tố, Thượng thư Bộ Công Nguyễn Thuật, Thượng thư Bộ Lễ Huỳnh Vĩ, Hội biện Sô Lê, Đô Ty, quận công Ưng Huy, Tham biện Tôn Thất Hoài Điển) và phát 100 phu khỏe theo nơi được chỉ đào và tìm thấy một hầm bạc ba vết (là loại bạc chuẩn của triều Nguyễn, trên thường có 3 cụm chữ triện đóng riêng rời.
Khâm sứ đại thần bàn trích 30.000 nén do Thượng thư Bộ Hộ Trương Như Cương, Hội biện Đô Ty chở ra Ngân hàng Hải Phòng đổi lấy tiền chi biện các việc công ích. Về sau ông khâm sứ đại thần nói với vua số bạc ấy trừ thuế, phí tổn đài tải quy ra tiền tổng cộng 460.350 đồng, gửi Ngân hàng Thượng Hải.
Hầm bạc được Khâm sứ đại thần Boulloche tìm thấy không phải là hầm bạc duy nhất. 6 năm sau, năm Duy Tân thứ 9 (1915), một hầm bạc khác được phát hiện.
Trong quá trình đào đất sau cửa Tường Loan để sửa chữa ống nước trong khuôn viên Đại Nội, toán thợ chạm phải hầm bạc, một số phái viên của Bộ Công đã trình lên trên. Nhận được tin, Phủ Phụ chính cùng Khâm sứ đại thần Charles tới xem thấy dưới hầm gạch có hòm gỗ, hai đầu đều có đai sắt mục đứt lộ ra các thỏi bạc.
Khi đào lên kiểm biên có đến 60 hòm gỗ với 10.000 hốt bạc và 1 đồng tiền đồng đỏ cùng khắc chữ Phú Thọ Đa Nam, 28 đồng tiền đồng và tấm bia đá khắc 16 chữ, dịch nghĩa “Giáp Ngọ ngày tốt, mười vạn bạc ròng, lưu làm quốc dụng, ai dám riêng lòng”.
Hầm bạc thứ 2 được tìm thấy vào tháng 7 thì cuối tháng 8 (29/8), cũng tại khu vực chỗ cửa Tường Loan, khi thi công sửa chữa miệng ống nước, lúc đào gạch lát nền, những người thợ thi công đụng phải phiến đá lớn, trên ấy có đồng tiền đồng hạng lớn đã nghĩ ngay đó là hầm chôn bạc của vua tiền triều.
Việc phát hiện được báo lên trên, lần này đích thân Vua Duy Tân cùng Khâm sứ đại thần Charles tới xem việc “khai quật”. Quá trình đào tìm thấy 1 đồng tiền đồng đỏ, 28 tiền đồng, bia đá khắc 16 chữ với nội dung “Minh Mạng Giáp Ngọ, cất bạc trăm ngàn, của nước không thiếu, chất chứa muôn vàng” và 70 hòm gỗ, bên trong có 10.000 hốt bạc thỏi...
Mãi đến gần 100 năm sau lần tìm kiếm cuối cùng của người Pháp, tưởng như sẽ không còn ai nhắc đến kho báu trong Hoàng cung nữa thì trong Đại Nội lại diễn ra thêm một cuộc tìm kiếm mà chưa có tài liệu nào ghi lại.
Sự kiện diễn ra vào mùa đông năm 1988. Nguyên do bắt nguồn từ một ông cụ ở TP.Hồ Chí Minh từng làm việc tại Huế, nghe người con trai của một vị quan xưa nói về kho vàng trong Đại Nội.
Trước khi tạ thế, vị quan đã có một thời coi sóc kho tàng ở Nội Vụ phủ trong Hoàng cung dặn lại người con trai của ông rằng ngày xưa có một kho vàng được chôn ở khoảng giữa bức tường phía Đông của Tử Cấm Thành, gần bờ hồ Ngự Hà. Ông cụ ấy mách lại cho một nhà lãnh đạo biết. Nhà lãnh đạo này báo cho Bộ Nội vụ hàng cấp cao hơn hay.
Lúc bấy giờ, một số cán bộ có thẩm quyền của Bộ này vào Bình Trị Thiên phối hợp với Sở Công an và Tỉnh ủy để cho đào. Dĩ nhiên mọi việc đều được tiến hành trong vòng bí mật. Một góc của Tử Cấm Thành bị phong tỏa và được canh gác kỹ lưỡng. Lực lượng đào gồm khoảng 10 người thuộc lực lượng trinh sát chính trị và kinh tế của Sở Công an đóng tại Huế.
Tuy mất khá nhiều thời gian nhưng kết quả của cuộc tìm kiếm này không có thứ gì giá trị như những lần người Pháp tìm thấy trước đó. Và từ thời điểm đó đến bây giờ không còn có bất kỳ một cuộc khai quật nào liên quan kho báu trong lòng đất của Vua Minh Mạng nữa.
Có lẽ tất cả vẫn sẽ mãi mãi là một bí ẩn...
Quý khách nếu có nhu cầu tham quan các tuyến điểm du lịch Huế, tuyến tour Huế hằng ngày vui lòng liên hệ Mr Linh ( 0905607374 ). Xin chân thành cảm ơn !
CÔNG TY DU LỊCH ĐÀ THÀNH – DA THANH TRAVEL
Địa chỉ: Lô 10 B4.4 Võ Nguyên Giáp – Đà Nẵng
ĐT: 0511.2638.638 – 0905.60.73.74 – Fax: 0511.3958638
Mail : hoanglinh@dathanhtravel.com