Hội du lịch Việt Nam

Du lịch ba miền (Không quảng cáo tour ở đây) => Miền Trung => Tác giả chủ đề:: Manga4vn vào Tháng Tám 07, 2008, 09:30:34 AM

Tiêu đề: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 07, 2008, 09:30:34 AM
Tất cả các bài viết trong topic này đều thuộc bản quyền UBND Tỉnh Hà Tĩnh (http://www.hatinh.gov.vn)


Nhà thờ họ Lê

Nhà thờ họ Lê (thường gọi là nhà thờ Lê Ninh) ở xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, trước đây thuộc làng Trung Lễ, xã Cổ Ngu, tổng Văn Lâm, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ. Trung Lễ ngày xưa nổi tiếng là làng văn hiến của có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm, nổi tiếng nhất là cuộc khởi nghĩa hưởng ứng chiếu Cần vương chống thực dân Pháp, mà người phất cờ nghĩa đầu tiên tại Hà Tĩnh là ông Lê Ninh.

Tháng 7 năm Ất Dậu (1885) hưởng ứng chiếu Cần Vương, Lê Ninh đã kêu gọi toàn dân cùng nhau đồng tâm hiệp lực đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Tháng 11/1885 quân của Lê Ninh từ đại đồn Trung Lễ phối hợp với quân của Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch kéo vào bao vây tỉnh thành Hà Tĩnh. Với chiến thuật “ nội công ngoại kích” nghĩa quân đã đột nhập bắt sống tỉnh trưởng Hà Tĩnh Lê Đại và thu toàn bộ chiến lợi phẩm. Hạ xong thành Hà Tĩnh, ông kéo đại binh lên Sơn phòng Phú Gia (Hương KhêH) đem chiến lợi phẩm giao nộp vua Hàm Nghi, vua phong cho ông làm Bang biện quân vụ và truyền lệnh về trấn thủ đại đồn Trung Lễ. Trước sức mạnh của nghĩa quân, bọn phản động với sự chỉ huy trực tiếp của quân viễn chinh Pháp đóng ở Vinh, tập kích bất ngờ nghĩa quân ở cả 2 mặt, đại đồn Trung Lễ của Lê Ninh chống trả quyết liệt nhưng không thể giữ vững đành phải rút quân lên đóng ở núi Bạch Sơn - Hương Sơn dựa vào thế núi thế sông hiểm trở để chiến đấu. Trong một trận đánh đồn Dương Liễu ở Nam Đàn (Nghệ An) một tiền đồn xung yếu, núi rừng âm u, nước độc hoành hành Lê Ninh bị ốm nặng, ông đã trút hơi thở cuối cùng khi vừa tròn 30 tuổi (1887).

Nhà thờ họ Lê được xây dựng từ lâu đời, đến năm 1918 được xây dựng quy mô bao gồm 3 toà, Thượng, Trung và Hạ điện, ngoài ra còn có nhà giám trì để cất giữ đồ thờ, tế lễ, cờ quạt, áo mũ, nhà khoa và nhà thường học là nơi bình thơ văn, dạy chữ Quốc ngữ cho con cháu. Nhà Bái đường được xây dựng 3 gian, 2 hồi, tường xây mái lợp ngói vảy, phía trên nóc có hình con sư tử đội mặt trời. Các vì kèo được chạm khắc tinh tế, gian giữa nhà có bức hoành phi nhũ vàng " Thực cựu đức cát". Đặc biệt ở đây có đặt 2 văn bia bằng đá Thanh khối chữ nhật, cao 1, 1m rộng 0,62 m, dày 0, 12m. Nội dung hai văn bia chép hành trạng cụ Án sát họ Lê - Lê Văn Vỹ ( 1796 - 1850) và cụ Quản đạo Lê Văn Tự ( 1831 - 1877). Nhà Trung điện xây theo kiểu dấu cột, gồm 3 gian lợp ngói vảy dùng để các án thư, lư hương, các biểu tượng binh khí, thẻ bài, các bức phù điêu, là nơi đặt bàn thờ cúng tổ tiên. Nhà thượng điện gồm 3 gian 2 hồi, tường xây lợp ngói vảy, dùng để các long ngai, bài vị và các bệ thờ bằng đá cao 1, 4m dùng để các lễ vật khi cúng tế.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 07, 2008, 09:35:48 AM
Nhà thờ thọ Phan Huy

Nhà thờ thọ Phan Huy thuộc xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, xưa là làng Thu Hoạch, tổng Canh Hoạch, huyện Thiên Lộc. Nhân dân ở đây từ xưa đã nổi tiếng hiếu học, mặc dù đời sống gặp nhiều khó khăn nhưng lúc nào cũng có người học hành đỗ đạt cao. Tiêu biểu nhất là dòng họ Phan Huy có bề dày lịch sử và truyền thống hiếu học có nhiều ngưòi cống hiến xuất sắc cho đất nước qua các thời kỳ lịch sử.

Dòng họ Phan Huy đến nay đã định cư ở đây 300 năm, với 18 đời nhưng vẫn giữ được truyền thống văn hiến của mình. Đến đời thứ 7 Phan Huy Cẩn là người đậu Tiến sĩ đầu tiên của dòng họ Phan Huy thời Hậu Lê (1754), ông là người có công lớn trong vịêc xây dựng nhà thờ họ Phan Huy. Tiếp nối truyền thống là Phan Huy Ích con trai trưởng sinh năm 1750 nổi tiếng thông minh, năm 1771 đậu khoa thi Hương trường Nghệ, năm sau 1775 ông đậu chế khoa Đồng Tiến sĩ và 4 năm sau nữa em trai ông là Phan Huy Ôn cũng đậu Tiến sĩ. Như vậy cả 3 cha con cùng đậu đại khoa và làm quan cùng một triều, nhưng càng làm quan to càng thấy triều đình rỗng nát và vô nhân đạo nên Phan Huy Ích đã từ quan.

Nhà Lê mất vua Quang Trung lên ngôi lấy việc bang giao với Trung Hoa làm hệ trọng nên mời Phan Huy Ích ra làm việc với Ngô Thì Nhậm và ông đã có những đóng góp to lớn trong công việc ngoại giao của nhà Tây Sơn sau chiến tranh. Khi nhà Tây Sơn mất vua Gia Long lên ngôi, ông lại được mời ra làm công việc ngoại giao và khi xong việc ông lại cáo quan về quê dạy học. Cuộc đời Phan Huy Ích trãi qua nhiều biến cố nhưng trong bối cảnh lịch sử ấy ông quả là một nho sĩ chân chính, sự nghiệp sáng tác văn thơ chính trị ngoại giao của ông để lại cho người đời sau đáng để cho lịch sử ghi nhớ và quê hương tự hào.

Tiếp nối truyền thống gia đình dòng họ Phan Huy trong những giai đoạn sau có nhiều nhân vật rất nổi tiếng trong đó phải kể đến Phan Huy Chú nhà sử học lừng danh. Ông là con của Phan Huy Ích ông thi không đỗ Cử nhân, Tiến sĩ mà chỉ hai lần đậu Tú tài nhưng ông là người học rộng biết nhiều, sự nghiệp văn chương của ông thì thật đồ sộ và phong phú nhưng nổi bật nhất là bộ: Lịch triều hiến chương loại chí gồm 499 quyển, 10 loại chí nghiên cứu, đây là bộ Bách khoa thư đầu tiên của Việt Nam. Tác phẩm không chỉ phản ảnh kiến thức uyên bác của ông mà của cả một dòng họ có nhiều bậc thức giả trí tuệ.

Nhà thờ họ Phan Huy được xây dựng vào năm 1779, gồm 3 toà Hạ, Trung và Thượng điện, cấu trúc theo kiểu chữ Tam (º),ngoảnh hướng Tây Namn, xung quanh có tường bao và một khuôn viên rộng có trồng các loại cây cảnh và cây ăn quả.

Nhà Hạ điện gồm 3 gian bằng gỗ lim, 4 vì kèo, lợp ngói âm dương, trong đó có treo bức đại tự “Diệc thế tải đức” (tích thiện thành đứct) và nhiều câu đối có ý nghĩa như câu:

“Tích thiện tư gia cơ sở đặc
Đồng hưu giữ quốc cổ kim vinh”


Nhà Trung điện được kết cấu đơn giản gồm 3 gian nhà gỗ lim lợp ngói âm dương, tại đây có đặt bàn thờ kích thước lớn sơn thon thiếp vàng chạm khắc công phu.

Nhà Thượng điện cũng gồm 3 gian 4 vì kèo bằng gỗ lim lợp ngói âm dương trên có bàn thờ và di ảnh truyền thần của 2 ông Phan Huy Cẩn và Phan Huy Ích.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 08, 2008, 11:20:09 PM
Chứng tích chiến tranh Trường Cấp II Hương Phúc

Di tích nằm trên địa bàn xóm 8, xã Hương Trạch, huyện Hương Khê, một xã vùng sâu vùng xa của huyện Hương Khê, có đường quốc lộ 15A và đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước xã Hương Trạch được xem là địa điểm chuyển tiếp của hậu phương miền Bắc đối với chiến trường miền Nam. Năm 1965, bị thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ quyết định leo thang ra đánh phá Miền Bắc nhằm phá hoại tiềm lực kinh tế quốc phòng và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc.

Tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đế quốc Mỹ liên tiếp đánh vào các thành phố, các vùng nông thôn, bệnh viện trường học, nhà máy. Trường cấp II Hương Phúc là một trong những địa điểm bị đánh phá. Hồi 16h 30' ngày 9/2/1966 một tốp máy bay F4 của lực lượng không quân Mỹ ném 58 quả bom xuống vùng dân cư, có 6 quả rơi vào khu vực trường học, trong đó 2 quả rơi vào lớp 5 A đang học bài, 33 em học sinh chết, 24 em bị thương tại chỗ, giặc Mỹ đã gây nên tội ác kinh hoàng trong lịch sử.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 08, 2008, 11:25:58 PM
Địa điểm chỉ huy Sở tiền phương Tổng cục hậu cần Bộ tư lệnh 559, Bộ tư lệnh 500

Di tích địa điểm chỉ huy Sở tiền phương Tổng cục hậu cần Bộ tư lệnh 559, Bộ tư lệnh 500 trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước phân bố tại xóm 7 xã Hương Đô, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.

Trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hương Đô là nơi đóng quân, trú chân an toàn của bộ đội và lực lượng thanh niên xung phong. Đặc biệt trong những năm 1964 - 1971 xã Hương Đô là nơi đóng sở chỉ huy an toàn nhất của các Bộ tư lệnh của Bộ quốc phòng như Chỉ huy Sở tiền phương Tổng cục Hậu cần, Bộ tư lệnh 559, 500.

Ngày nay, các địa điểm đóng quân đã được công nhận là Di tích lịch sử kháng chiến, thuộc hệ thống di tích đường Hồ Chí Minh, bao gồm:

- Sở chỉ huy đóng tại nhà ông bà Nguyễn Văn Nhuệ và bà Đinh Thị Khánh "ngôi nhà 3 gian, " bằng gỗ, lợp tranh, vách phên nứa quay về hướng nam. Đây là nơi làm việc trong nhiều năm của các đồng chí chỉ huy cao nhất của các Bộ tư lệnh. Năm 2002 các cựu chiến binh của Bộ đội Trường Sơn năm xưa đã xây dựng một bia dẫn tích có diện tích mặt bằng 30m2, lát gạch nội dung ghi lại các cơ quan và các vị lãnh đạo đã từng đóng và làm việc tại nơi đây.

- Hội trường hội họp và sinh hoạt văn nghệ của bộ đội được bố trí tại người nhà ông Hoàng Văn Học, nơi đây có hầm hào trú ẩn, xung quanh có đắp bờ luỹ. Đây là nơi diễn ra hội nghị tổng kết mùa khô 1966 - 1967 cũng là Hội nghị Hương Đô.

- Bộ phận Hậu cần phục vụ cơ quan Bộ tư lệnh đặt tại nhà ông Ngô Hạp và bà Nguyễn Thị Minh.

- Bộ phận thông tin liên lạc đóng tại nhà Nguyễn Thị Nhỏ, nơi đây có bộ phận cơ yếu, điện đài, thông tin, máy phát điện.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 08, 2008, 11:31:11 PM
Làng K130

Làng K130 thuộc làng Hạ Lôi xã Tiến Lộc huyện Can Lộc. Trong cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta chống đế quốc Mỹ, biết bao tên đất tên làng đã ghi dấu những sự kiện lịch sử. Cùng với bao làng quê khác của Việt Nam, làng K130 xã Tiến Lộc đã đi vào lịch sử của dân tộc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ như một mốc son chói lọi của bản anh hùng ca, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của lòng quyết tâm quả cảm, của sự hy sinh cao cả và cả sức manh vĩ đại của thế trận lòng dân, để viết nên những trang sử vàng chói lọi của dân tộc ta trong những năm cuối thế kỷ XX. Cùng với Ngã ba Đồng Lộc, làng K130 trong chiến tranh chống Mỹ là sự kiện lịch sử điển hình của tinh thần đoàn kết toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân nhằm giữ vững mạch máu giao thông thông suốt trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

Ngày 13/8/1968, nhân dân làng Hạ Lôi được sự giúp đỡ của lực lượng dân quân và nhân dân trong xã đã tự nguyện dời dọn nhà cửa của mình để mở đường xế cho thông xe đưa hàng vào chiến trường miền Nam. Với khẩu hiệu “Xe chưa qua nhà không tiếc”, chỉ trong vòng chưa đầy 8 tiếng đồng hồ đã có 130 ngôi nhà của nhân dân làng Hạ Lôi được dời dọn để mở đường tránh cho đoàn xe 130 chiếc chở xăng dầu, lương thực và đạn dược vận chuyển vào Nam thắng lợi. Để ghi nhớ sự kiện lịch sử ngày 13 tháng 8 năm 1968, có 130 ngôi nhà của nhân dân dời dọn để làm đường tránh cho 130 xe chở hàng ra tiền tuyến, Ban đảm bảo giao thông của tỉnh Hà Tĩnh đã đặt tên làng Hạ Lôi là làng K130 và chiến dịch vận chuyển này là chiến dịch K130. Cái tên làng K130 đã đi vào lịch sử như một mốc son chói lọi của bản anh hùng ca về cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Trải qua thời gian, ngôi làng K130 bị chiến tranh tàn phá và sự tự nguyện hy sinh của nhân dân năm xưa giờ đây đã đổi thay to lớn, những hố bom trở thành hồ thả cá của nhân dân, những ngôi nhà ngói đỏ thay thế những ngôi nhà buộc phải tháo dỡ năm xưa. Nhưng sự kiện lịch sử ngày 13/8/1968 với cái tên làng K130 thì nhân dân địa phương không bao gìơ quên, với các địa danh lịch sử: Con đường xế, bến phà, Thượng Gia -Cổ Ngựa, cầu Già.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 08, 2008, 11:35:49 PM
Ngã ba Đồng Lộc

Xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc gồm 2 làng cũ là Khiêm Ích và Điền Xá, xưa kia mới có ngã ba Khiêm Ích là chỗ rẽ từ đường 15A theo đường liên xã về Nghèn. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, trên đất Đồng Lộc có thêm đường đi Truông Kén, đường đi O Dước, đường đi Truông Bát, tạo thêm một số ngã ba. Quan trọng nhất là ngã ba Đồng Lộc, chỗ giáp nhau củaTỉnh lộ 2 đi qua ngã Ba Giang và quốc lộ 15A đi Truông Bát lên Tân Ấp (Hương Khê) để vào con đường Trường Sơn lịch sử.

(http://hatinh.gov.vn/Home/images/news/hatinh20073615113.jpg)
Tượng đài chiến thắng - Ngã ba Đồng Lộc

Ngã ba Đồng Lộc như một lòng chảo nằm giữa ba dãy núi thấp: núi Trọ Voi ở phía đông bắc, núi Mũi Mác ở phía tây nam, núi Môi ở phía đông. Vây quanh ngã ba này có cầu Bạng, cầu Cóc, cầu Tối và cống 19. Khi các cầu cống trên quốc lộ IA bị địch đánh sập thì ngã ba Đồng Lộc trở thành yết hầu giao thông quan trọng nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn anh hùng. Vì thế địch tập trung hoả lực hòng biến vùng này thành vực thẳm, ngăn chặn sự chi việc của miền Bắc đối với miền Nam.

Dưới sự lãnh đạo của §ảng, trực tiếp là §ảng bộ Hà Tĩnh, các lực lượng bộ đội, thanh niên xung phong (TNXP), công an, dân quân sát cánh bên nhau hiệp đồng chiến đấu quyết tâm bảo vệ mạch máu giao thông. Với tinh thần quyết tâm “Tất cả cho miền Nam ruột thịt” quân và dân Hà Tĩnh đã huy động hết sức mình cùng cả nước góp phần vào cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập của dân tộc. Người dân Đồng Lộc và nhiều xã thuộc huyện Can Lộc đã có 12.600 lượt người tham gia, góp trên 185.450 ngày công, vận chuyển 45m3 gỗ, cung cấp 22.448 cọc tre và 24.600 gánh cành, chống lầy. Tiêu biểu cho tập thể, đơn vị, cá nhân anh hùng là chiến sỹ quan sát bom La Thị Tám đứng vững liên tục trong suốt 90 ngày đêm trên đỉnh núi Mòi và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; tổ rà phá bom Vương Đình Nhỏ đã có nhiều sáng kiến; tổ gạt máy Uông Xuân Lý không quản hy sinh hăng hái san lấp hố bom thông đường cho xe qua; tổ cảnh sát giao thông Nguyễn Tiến Tuẫn liên tục bám sát trận địa; các chiến sỹ đơn vị cao xạ 210 thuộc F367 đã đánh trả quyết liệt máy bay địch bảo vệ những chuyến xe, chuyến hàng vượt qua trọng điểm một cách an toàn và trong những tập thể cá nhân điển hình đó nổi bật là tập thể 10 cô gái tiểu đội 4 thuộc tổng đội 55 TNXP do Võ Thị Tần làm tiểu đội trưởng đã lập nhiều chiến công oanh liệt. Cuộc sống, sinh hoạt giữa vùng chảo lửa của cuộc chiến tranh đời sống vật chất cũng như tinh thần gặp nhiều khó khăn, nhưng các chị: Võ Thị Tần, Hồ Thị Cúc, Nguyễn Thị Nhỏ, Hà Thị Xanh, Trần Thị Rạng, Nguyễn Thị Xuân, Võ Thị Hà, Trần Thị Hường, Võ Thị Hợi, Dương Thị Xuân vẫn luôn lạc quan yêu đời, thương yêu, đoàn kết động viên nhau không quản ngày đêm cùng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Tiểu đội 4 đã đào đắp hàng ngàn m3 đất đá, san lấp hàng ngàn hố bom, hướng dẫn hàng trăm chuyến xe, cứu hàng trăm chuyến hàng.... và 10 cô gái TNXP Ngã ba Đồng Lộc đã để lại nhiều kỷ niệm, tình cảm, ấn tượng đẹp cho chiến sỹ, đồng đội, cho những đoàn xe chở hàng vượt qua chảo lửa trên đường hành quân vào mặt trận. Ngày 24-7-1968 cùng một lúc 10 cô gái trong tiểu đội TNXP Võ Thị Tần đã anh dùng hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ. Các chị đã hiến trọn cả tuổi đời thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng đất nước và “Tên tuổi của 10 cô đã được nhân dân cả nước và bạn bè thế giới nhắc đến như một kỳ tích anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng”. Với cống hiến to lớn đó năm 1972 tiểu đội TNXP Võ Thị Tần đã được Nhà nước tặng thưỏng các huân chương và truy tặng danh hiêu Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Sau khi chiến tranh kết thúc được sự giúp đỡ của các ban ngành cấp tỉnh, của các bộ ngành TW, khu chứng tích chiến tranh Ngã ba đồng Lộc đã đựợc bảo vệ và tôn tạo một số công trình có ý nghĩa tưởng niệm. Năm 1988, Ngã ba Đồng Lộc được Nhà nước công nhận là di tích Quốc gia, Trung ương đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ chí Minh chọn làm trưòng học giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Hiện nay được sự quan tâm của Bộ VHTT,Trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền tỉnh Hà Tĩnh, khu di tích Ngã ba Đồng Lộc được quy hoạch tổng thể, đầu tư kinh phí lớn với nhiều hạng mục qui mô đã, đang đưa vào sử dụng như: Tượng đài chiến thắng; quảng trường cụm biểu tượng ngành Giao thông vận tải, các lực lưọng công an, bộ đội đã tham gia bảo vệ và chiến đấu tại địa danh lịch sử này; nhà trưng bày bảo tàng Ngã ba Đồng Lộc; nhà truyền thống lực lượng TNXP Việt Nam; nhà bia tưởng niệm; khu mộ 10 cô; một số hạng mục khác đã và đang có kế hoạch nâng cấp, xây dựng mới.v.v... các dãy núi xưa kia chịu sự cày xới của bom đạn nay đã được phủ một màu xanh đầy sức sống.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 08, 2008, 11:40:07 PM
Ngã ba Nghèn

Ngã ba Nghèn là điểm gặp nhau của đường quốc lộ IA và đường liên xã từ huyện Can Lộc qua Khánh Lộc về Đồng Lộc, Trung Lộc. Đây là trung tâm quần tụ các di tích trên một địa phương giàu truyền thống yêu nước, cách mạng. Ngày xưa Ngã ba Nghèn thuộc làng Trảo Nha, sau cách mạng đổi tên là Đại Lộc, huyện Can Lộc. Từ 1984, một phần của xã Đại Lộc được tách thành thị trấn Nghèn là nơi diễn ra những cuộc biểu tình lớn từ tháng 5/1930 - 7/1931.

Can Lộc có hơn 40 cuộc biểu tình ở phạm vi tổng và huyện với hàng ngàn người tham gia. Ngày 1-8-1930 quần chúng vùng Hạ Can và Thượng Can chia thành nhiều hướng kéo về huyện đường hô vang các khẩu hiệu:

- Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc và Nam triều phong kiến.
- Giảm sưu thuế ủng hộ Nga Xô.


Trước khí thế mạnh mạnh mẽ của cuộc biểu tình, tri huyện Trần Mạnh Đàn phải ra tận cầu Nghèn ký vào bản yêu sách. Nhưng sau đó bọn địch xảo quyệt không thực hiện những điều ký kết, quần chúng nhân dân lại vùng lên đấu tranh. Sáng ngày 7-9-1930 hơn 2000 nông dân vùng Hạ Can kéo về huyện lỵ, lần này tri huyện cùng bọn nha lại bỏ trốn, đoàn người xông vào đập phá huyện đường đốt phá giấy tờ. Đặc biệt là cuộc biểu tình ngày 12-12-1930 nhân dân các vùng trong huyện có tới 5000 người mang nhiều băng cờ khẩu hiệu cờ đỏ búa liềm rầm rập tiến đến huyện đường chống đàn áp khủng bố, đòi giảm sưu thuế và thực hiện các quyền dân sinh dân chủ. Tại một địa điểm cách Ngã ba 200 mét bọn lính đã xả súng vào đoàn biểu tình làm 42 người chết và hàng trăm người bị thương. Trước phong trào cách mạng của quần chúng, địch tăng cường khủng bố bắn giết các chiến sỹ cộng sản, Ngã Ba Nghèn lại ghi nhận nhiều chiến tích và chứng kiến sự hy sinh anh dũng của nhiều đồng chí như: Võ Quế, Phạm Thị Dung, Phan Cần, Hồ Ngọc Tàng, Thanh Sơn, Nguyễn Nhân...

Thời kỳ chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, Ngã ba Nghèn có vị trí đặc biệt quan trọng, nằm trên quốc lộ IA cách cầu Nghèn khoảng 300m. Địch đã ném 16.909 quả bom các loại, bắn hàng ngàn quả đạn pháo, tên lửa xuống khu vực này. Các đơn vị phòng không của dân quân tự vệ và bộ đội địa phương đã chiến đấu dũng cảm hạ 3 máy bay địch. Các đội rà phá bom từ trường, bom nổ chậm, lái phà cảm tử ngày đêm hoạt động không quản hiểm nguy.

Hiện nay các di tích tại ngã ba Nghèn và hiện vật liên quan đến di tích còn được bảo vệ như hai mố cầu nơi các chiến sĩ Xô Viết bị bắn, dấu vết của huyện đường, đồn địch còn chân móng bến phà trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước kèn báo động và súng các loại. Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh đã xây dựng khu di tích lịch sử Ngã ba Nghèn bao gồm có đài tưởng niệm và bia khắc tên các liệt sĩ đã hy sinh trong thời kỳ 1930-1931.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 08, 2008, 11:45:08 PM
Nhà Mai Kính

Di tích nhà cụ Mai Kính, nơi thành lập tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh (1930), thuộc thôn Bùi Xá, xã Phù Việt, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Việt, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

Trong những năm 1926-1927 tư tưởng yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã ảnh hưởng sâu sắc đến các địa phương ở Nghệ Tĩnh. Trong bối cảnh đó tháng 2-1927 tại nhà Mai Kính một trí thức yêu nước ở trong xã Phù Việt và các địa phương đã đứng ra thành lập Đảng Tân Việt ở Thạch Hà. Nhà cụ Mai Kính trở thành trụ sở hội họp in ấn tài liệu cho Đảng Tân Việt đồng thời trở thành trung tâm để các tổ chức Đảng bắt mối liên lạc hoạt động trong vùng. Tháng 3-1930 chi bộ Đảng cộng sản ở Phù Việt được thành lập trên cơ sở Đảng Tân Việt, làng Phù Việt trở thành căn cứ địa. Lúc này trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh phong trào cách mạng đang lên mạnh mẽ, do đó cần phải có một tổ chức, một đường lối và nghị quyết rõ ràng đó là tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh. Nhà cụ Mai Kính được chọn làm địa điểm Đại hội thành lập Tỉnh uỷ Hà Tĩnh vào ngày 15,16/9/1930. Đại hội đã bầu ra ban chấp hành tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh gồm 6 đồng chí trong đó có Mai Kính chủ nhân ngôi nhà. Nhà cụ Mai Kính trở thành trụ sở chính thức của Tỉnh uỷ Hà Tĩnh, từ ngôi nhà này nhiều chỉ thị nghị quyết truyền đơn của Tỉnh uỷ đã được truyền đi để chỉ đạo phong trào đấu tranh trong phong trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Sau đại hội phong trào đấu tranh ở làng Phù Việt phát triển mạnh mẽ, thực dân Pháp phát hiện đây là căn cứ đầu não, được mệnh danh là “ Làng đỏ”, là cơ sở của Tỉnh uỷ Hà Tĩnh đóng, nên kẻ thù tìm mọi cách đàn áp tiêu diệt nhưng nhân dân địa phương dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tỉnh uỷ Hà Tĩnh đã đấu tranh anh dũng rào làng chiến đấu cất giữ tài liệu và dỡ ngôi nhà cụ Mai Kính đi nơi khác

Ngày nay nhà cụ Mai Kính đã trở thành một di tích lịch sử cách mạng. Nơi đây đã chứng kiến sự thành lập chi bộ Tân Việt của Huyện Thạch Hà, là địa điểm tiến hành Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh trong chỉ đạo phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 và là cơ quan ấn loát, trụ sở của Tỉnh uỷ Hà Tĩnh trong chỉ đạo phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931. Di tích hiện còn là một ngôi nhà lá đơn như bao ngôi nhà của người dân trong vùng, nhưng chứa đựng trong đó là các sự kiện lịch sử gắn với sự ra đời và trưởng thành của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 08, 2008, 11:50:10 PM
Khu căn cứ Vũ Quang

Di tích khu căn cứ Vũ Quang nơi đóng đại bản doanh của cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX nằm trong dãy rừng nguyên sinh thuộc xã Vũ Quang, huyện Hương Khê cách trung tâm huyện Hương Khê 70 km về phía bắc (nay thuộc xã Hương Quang, huyện Vũ Quang).

Vào những năm cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhân dân ta kiên quyết đứng lên cùng các sĩ phu yêu nước chống giặc ngoại xâm. Nhất là khi vua Hàm Nghi ra hịch Cần Vương kêu gọi kháng chiến chống Pháp tạo nên một làn sóng đấu tranh mạnh mẽ khắp cả nước. Nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng với địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm 4 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình, đại bản doanh của nghĩa quân đóng tại Vũ Quang. Khu căn cứ này được xây dựng từ 1887 đến năm 1889 dưới sự chỉ huy của Cao Thắng phó tướng của Phan Đình Phùng bao gồm đào hào đắp luỹ, đào hầm đất nung khô để cất giấu lương thực, lập các lò rèn vũ khí với một hệ thống đồn trại dày đặc để bảo vệ đại bản doanh và bộ tham mưu nghĩa quân. Số quân thường trực ở đây khoảng 500 người với trang bị vũ khí đầy đủ. Từ đại bản doanh Vũ Quang, Phan Đình Phùng và Cao Thắng chủ trương cho các quân thứ ở các huyện cùng một lúc tấn công địch giành thế chủ động và mở rộng địa bàn hoạt động, giành nhiều thắng lợi ở Hương Sơn, Hương Khê, Linh Cảm, Quỳ Châu, Phù Diễn và bẻ gãy các cuộc cán quét của địch. Tuy vậy nhìn toàn cục thì nghĩa quân ở căn cứ Vũ Quang chiến đấu trong tình trạng ngày càng bị cô lập bởi không có điều kiện tiếp ứng cho nhau. Để giải thoát tình trạng đó năm 1893 Phan Đình Phùng và Cao Thắng quyết định mở một cuộc tấn công lớn vào thành Nghệ An trung tâm đầu não của địch, đang đánh thắng lớn ở Thanh Chương thì Cao Thắng hy sinh kế hoạch tấn công bị bỏ dỡ, bộ chỉ huy nghĩa quân mất một người mưu lược dũng cảm.

Lúc này phong trào Cần Vương trong cả nước gần như đă chấm dứt, căn cứ Vũ Quang gần như bị cách ly với đồng bằng bởi địch dồn toàn bộ lực lượng bao vây rất chặt việc tiếp tế lương thực thuốc men gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn tấn công lên căn cứ Vũ Quang (10-1894) đúng như dự tính của Phan Đình Phùng nghĩa quân đã chủ động tiêu diệt được 100 tên và thu được nhiều vũ khí chiến lợi phẩm, thắng lợi ấy tuy có tiếng vang lớn nhưng tình thế nghĩa quân ngày càng bị cô lập. Nhân đó địch huy động một lực lượng lớn để tiêu diệt căn cứ Vũ Quang với chiến lược bao vây chọc thẳng đánh dài ngày và cắt đường dây tiếp tế liên lạc. Ngày 28-12-1895 lãnh tụ Phan Đình Phùng đã anh dũng hy sinh, cuộc khởi nghĩa đi vào tan rã.

Di tích căn cứ Vũ Quang bao gồm thành luỹ, bãi tập binh và một số dấu tích liên quan đến một số trận đánh lớn.

Thành Vũ Quang là trung tâm của khu di tích được tạo bởi đá tự nhiên có tổng chiều dài 8.010 m rộng 150m, mặt tiền của thành dựng đứng có độ cao trung bình 30m, hiện còn dấu tích của hai cổng: cổng chính và cổng đông bắc. Tại cổng chính có hai hòn đá lớn cao 3mx2m, tương truyền đây là nơi nghĩa quân Phan Đình Phùng đứng gác, phía dưới có vực thành là điểm cuối cùng của thành luỹ. Đối diện với mặt tiền là dãy núi Tây Thành làm bức tường tự nhiên bảo vệ Đại bản doanh. Hậu thành dựa vào núi Giăng Màn tạo nên thế vững chắc an toàn cho căn cứ, dưới núi có khe rào Rồng, chân ôm lấy thành và gặp khe Vách rào tạo thành đầu nguồn sông Ngàn Trươi nơi xảy ra trận đánh nổi tiếng ngày 30-10-1894 trận đánh tiêu biểu của khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Mặt thành bằng phẳng là nơi đóng bộ chỉ huy doanh trại nghĩa quân hậu cần, quân lương.

Bãi tập nghĩa quân: cách thành cũ quay về phía tây nam khoảng 3km, có bãi đất khá rộng diện tích 418x228m phía tây giáp sông Con, phía đông giáp núi cây Khế, phía nam giáp khu vực xã Hương Điền đây là nơi nghĩa quân luyện tập võ nghệ bắn súng cưỡi ngựa.

Khu căn cứ Vũ Quang là nơi có địa bàn hiểm trở xung quanh có núi bao bọc tạo thế đứng vững trong 10 năm, từ ngoài đi vào khu căn cứ phải theo một con đường độc đạo phải vượt qua bao ghềnh thác, khe suối với nhiều phòng tuyến canh gác thì mới đến được đại bản doanh của nghĩa quân – trung tâm của cuộc khởi nghĩa.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 08, 2008, 11:55:35 PM
Mộ Phan Đình Phùng

Phan Đình Phùng sinh ngày 4/4 năm Đinh Mùi (6/6/1847) tại làng Đông Thái, huyện La Sơn nay là làng Đông Thái, xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh, vùng quê nổi tiếng có nhiều người thành đạt trên con đường khoa bảng và làm quan. Năm 30 tuổi Phan Đình Phùng đỗ cử nhân và năm sau đỗ Đình nguyên Tiến Sĩ sau đó được bổ ra làm quan. Vốn có tính cương trực liêm khiết và ngay thẳng cho nên cuộc đời ông cũng đầy sóng gió nguy hiểm có khi cả đến tính mạng.

Lúc này đất nước đang rơi vào họa ngoại xâm, triều đình Huế chia làm 2 phe chủ hoà và chủ chiến, phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết cầm đầu chuẩn bị lực lượng phản công, nhưng cuộc tấn công quân Pháp vào tháng 7-1885 bị thất bại. Vua Hàm Nghi xuất bôn đến Hương Khê, Phan Đình Phùng và các sĩ phu yêu nước đến yết kiến và ông được giao cho chức Thống đốc quân vụ đại thần lãnh đạo phong trào chống Pháp 4 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ cuối năm 1885, nghĩa quân đã tự tạo được súng trường kiểu 1874 của Pháp, trang bị được hơn 500 khẩu với số đạn dược đầy đủ, con số nghĩa quân lên đến 1000 người chia thành 15 quân thứ. Dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở để phòng thủ và chống giặc càn quét và đánh thắng nhiều trận lớn ở Phủ Quỳ, Cầu Giát (10-1890), đồn Quy Hợp - Hương Khê (3-1891) thị xã Hà Tĩnh (8-1890) gây cho quân địch nhiều tổn thất, hoang mang lo sợ.

Kể từ sau năm 1893 quân Pháp và tay sai Nam Triều tập trung lực lượng bao vây và tiến công khu căn cứ Vũ Quang, trong một trận càn Phan Đình Phùng đã bị thương sau đó hy sinh vào ngày 28-12-1895 thọ 49 tuổi. Thi hài ông được chôn dưới chân núi Qụat nhưng tên Việt gian Nguyễn Thân đã tìm được mộ ông và cho quật lên đốt thành tro cho vào thuốc súng bắn xuống dòng sông La.

Di tích mộ Phan Đình Phùng nằm trên ngọn đồi Nê Sơn, cạnh đường quốc lộ 8A, thuộc làng Đông Thái, xã Tùng ảnh, huyện Đức Thọ. Đây là nơi tưởng niệm vị anh hùng dân tộc, biểu tượng cho tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc trong phong trào chống thực dân Pháp xâm lược thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ XIX.

Năm 1965, khu mộ Phan Đình Phùng được tôn tạo lại khang trang như hiện nay, bao gồm 2 phần chính là khu mộ và bia. Bia làm bằng chất liệu đá Thanh có kích thước rộng 0,95 m cao 1, 59 m và dày 1, 2 m trán bia có hình bán nguyệt mặt trước và sau được chạm trổ mặt hổ phù diềm bia có các hoa văn mây, hoa lá, bia được khắc hai mặt bằng chữ quốc ngữ nêu cuộc đòi sự nghiệp và ca ngợi cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo cũng như ca ngợi nhân dân 4 tỉnh Thanh, Nghệ, Hà, Quảng đã tích cực hưởng ứng cuộc khởi nghĩa và đức hy sinh cao cả của Phan Đình Phùng. Bia do Viện trưởng Viện sử học Việt nam Trần Huy Liệu soạn lời văn.

Khu mộ, được đặt ở gần đỉnh đồi là nơi cao nhất, thoáng đãng thể hiện sự uy nghi và cung kính. Mộ Phan Đình Phùng xây theo hướng Đông - Tây, bao bọc bởi 2 lớp tường xây, cách nhau 2, 5m tường trong cao 0, 3m và tường ngoài 0, 8m. Mộ được ghép bằng đá Thanh màu xanh dài 2, 58m đỉnh cao mộ được tạo hình chóp nón, trên có hình bông sen, mặt trước thân mộ được tạo lõm hình vòm cuốn và chạm biển đề: Phan Đình Phùng ( 1847 - 1895), phía trước có đặt lư hương bằng đá cho khách viếng thăm mộ đốt hương tưởng niệm. Năm 2004-2005, khu mộ Phan Đình Phùng đã được UBND tỉnh Hà Tĩnh đầu tư tu bổ tôn tạo.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 12:02:36 AM
Miếu Biên Sơn

Miếu thuộc xóm Biên Sơn, thuộc xã Hồng Lộc, huyện Can Lộc. Theo truyền thuyết dân gian, ở làng Biên Sơn có một nữ tướng tên là Phan Thị Sơn, người con gái kiên trinh đã từng bôn ba khắp nơi, tham gia khởi nghĩa chống quân Minh, lập nhiều chiến công hiển hách. Để tỏ lòng biết ơn bà, nhân dân đã xây dựng nơi thờ phụng, gọi là Miếu Biên Sơn. Vua nhà Hậu Lê phong cho bà một đạo sắc: “ Thượng đẳng thần”, về sau vua Tự Đức lại phong cho bà một đạo sắc nữa: “Thượng thượng đẳng thần”.

Miếu được xây dựng từ thời nhà Lê, sau đó bị hư hỏng. Đến năm 1913 được tu sử lại toàn bộ. Miếu nhỏ, hình vuông, kiến trúc theo kiểu chồng diềm, 4 mái lợp ngói vảy. Đỉnh nóc có hình mặt trăng hai đầu thượng ốc có hai con rồng chầu lại. Hai cột xây phía trước có khắc nổi hai câu đối:

“Tướng nữ Thần uy giai phát tích
Biên Sơn linh ứng mạch tăng huy”
(Nữ tướng uy linh lập chiến công to lớn
Biên Sơn linh ứng mạch đất sáng tỏ thêm).


Trong thời kỳ cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, tại miếu Biên Sơn các chiến sĩ cách mạng đã tổ chức nhiều cuộc hội họp để chỉ đạo phong trào cách mạng, đấu tranh với kẻ thù xâm lược và bè lũ tay sai.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 08:59:47 AM
Nhà thờ và mộ Nguyễn Huy Oánh

Thuộc làng Tràng Lưu, xã Lai Thạch, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn phủ Đức Quang xưa, nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc.

Nguyễn Huy Oánh sinh ra trong một dòng họ có truyền thống học hành khoa bảng, nhưng ông là người đỗ Đại khoa (Thám hoa) đầu tiên của dòng họ Nguyễn Huy Tràng Lưu, người đỗ Đình nguyên thám hoa khoa thi Mậu Thìn năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748). Sau khi thi đỗ ông được bổ nhiệm làm nhiều chức quan trong triều Lê - Trịnh, đặc biệt ông là 1 người thầy có công dạy được nhiều lớp học trò là Tiến sỹ, cống sỹ. Ông đã lập ra “Phúc giang thư viện”, với hàng vạn đầu sách. Ông còn là một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm: “Bắc dư tập lăm”, “Hoàng hoa sứ hình đồ”, “Quốc sử toản yếu”.

Ông mất 9/5/1789. Sau khi ông mất con cháu lập nhà thờ. Nhà thờ quay hướng nam, kiến trúc chữ Nhị (=)bao gồmb: Thượng điện, bái đường, phía trước có 2 cột nanh cao lớn. Mộ ông nằm ở núi Phượng Lĩnh được đắp bằng đất, quay hướng Đông, xung quanh có tường bao cửa ra vào. Quanh mộ ông là mộ của con cháu dòng họ Nguyễn Huy.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 09:05:02 AM
Nhà thờ Bùi Dương Lịch

Nhà thờ Bùi Dương Lịch thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, tên cũ là làng Yên Hội, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, phủ Đức Quang.

Bùi Dương Lịch sinh năm 1757 trong một gia đình Nho học nổi tiếng. Năm 17 tuổi Bùi Dương Lịch đậu Hương cống, sau đó ra Thăng Long dạy học và luỵên tập văn sách ở Quốc tử giám, năm 1786 ông được bổ làm Huấn đạo phủ Lý Nhân nhưng ông không nhận vì có tang cha. Lúc này phong trào Tây Sơn đã phát triển mạnh mẽ và kéo ra Thăng Long tiêu diệt chính quyền họ Trịnh, khi Tây Sơn rút về thì việc tranh chấp giữa 2 dòng họ Lê - Trịnh lại diễn ra quyết liệt, triều Lê xuống chiếu tìm người tài và Bùi Dương Lịch được Lê Chiêu Thống tin dùng cho làm Nội hàm viện cung phụng sứ ngoại lang. Tháng 7-1787 thi Hội ông đỗ Hội nguyên, rồi thi đình đỗ Đình Nguyên nhị giáp Tiến Sĩ (Hoàng giáp). Đường công danh chưa kịp bước thì ông đứng trước thử thách mới, Lê Chiêu Thống rước quân Thanh xâm lược nước ta, đã bị quân ta dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung đánh cho đại bại. Tuy mang ơn tri ngộ của vua Lê nhưng cuối cùng Bùi Dương Lịch không theo mà về quê ở ẩn giấu tông tích, nhưng không giấu được danh. Triều Tây Sơn biết ông là người có tài năng mời ông ra cộng tác giúp đỡ, sau nhiều lần từ chối ông nhận làm việc ở Viện Sùng Chính, khi vua Quang Trung mất Viện Sùng chính ngưng hoạt động ông về quê dạy học. Vua Gia Long lên ngôi ông bị triệu ra làm quan với chức Đốc học Nghệ An từ 1805-1808 rồi ông cáo quan về quê dạy học và viết sách. Ông mất năm Mậu Tý (1828).

Xuất thân trong một gia đình nhà Nho chịu ơn sâu nặng của nhà Lê, nhưng Bùi Dương Lịch lại sống trong giai đoạn lịch sử đầy biến động. Cho nên hoàn cảnh buộc ông phải mang tiếng là kẻ “ thay thầy đổi chủ” như ông đã tâm sự sau này:

"Lê triều cử Tiến sĩ
Tây "ngụy" sĩ Hàn lâm
Bản triều vi Đốc học
Tứ hải công tri âm"


(Triều Lê đậu Tiến sĩ, thời "ngụy" Tây Sơn làm quan Hàn lâm, đến triều Nguyễn làm đốc học, bốn biển đều biết tiếng).

Nhà thờ Bùi Dương Lịch được xây dựng năm 1808, trong khu đất vườn của dòng họ, do những người học trò cũ ghi nhớ đến công ơn dạy dỗ của thầy, một nghĩa cử hết sức cao đẹp đáng trân trọng, là bằng chứng của đất hiếu học. Nhà thờ bao gồm nhà bái đường và thượng điện, được xây dựng theo kiểu chồng diêm, lợp ngói vảy, có diện tích 55,6m2, phía trên đỉnh mái đắp nổi bằng đá 2 con nghê chầu. Trước hiên nhà có 3 chữ "Lưỡng nguyên từ" (từ đường của 2 Hoàng giáp). Nhà Bái đường dài 5,5m, rộng 5,1m, xây kiểu một gian hai hồi, nền lát gạch Cẩm Trang, xung quanh có tường bao, các xà ngang và kẻ chuyền có chạm trổ hình chim, hoa, lá, cá, rồng, phượng. Nhà Thượng điện: Là gian thờ chính, cũng xây dựng giống nhà Bái đường, gồm một gian, hai hồi, chính giữa gian được bố trí bàn thờ lớn bằng gỗ và đền thờ ông.

Ngoài nhà thờ, khi ta đến còn gặp một tấm bia đá và văn bia Bùi Tồn Trai được làm từ năm 1866, tức 38 năm sau ngày mất của ông. Bia bằng chất liệu đá Thanh, cao 0,9m, rộng 0,65m, dày 0, 15m có trang trí hoa văn đẹp, đây là tấm bia do con rể ông là Nguỵ Thiện Phủ chế tác, công việc chưa xong thì ông qua đời, sau đó con trai ông là Bùi Thúc Kiên tiếp nối hoàn thành. Nhưng bài văn bia lại do Nguyễn Văn Siêu soạn giúp, bài văn gồm 500 chữ nhận xét cô đọng cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 09:09:37 AM
Nhà thờ Nguyễn Huy Tự

Nhà thờ Nguyễn Huy Tự thuộc xã Trường Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, tên cũ là làng Tràng Lưu, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An.

Nguyễn Huy Tự (1743 - 1790) là người văn võ toàn tài có nhiều đóng góp cho đất nước trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động nửa cuối thế kỷ XVIII, đặc biệt trong phong trào Tây Sơn do Quang Trung – Nguyễn Huệ lãnh đạo. Ông là người thức thời và nhạy cảm với thời cuộc, thanh thản trút bỏ áo mũ cân đai của cận thần nhà Lê để phù tá triều Tây Sơn và được tiến cử chức Tiền triều Đốc đồng Hữu thị lang cùng Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà phù Lê diệt Trịnh và đại phá quân Thanh xâm lược. Bên cạnh đó ông còn đóng góp cho đất nước về mặt văn học một tác phẩm rất có giá trị đó là Truyện Hoa Tiên với 59 hồi gồm 1860 câu thơ lục bát viết bằng chữ Nôm, mở đầu thể loại thơ lục bát viết bằng chữ Nôm ở nước ta.

Ngoài những công lao kể trên, Nguyễn Huy Tự cùng với gia đình cha con lập nên một công trình văn hoá nổi tiếng tại làng quê của ông là “Phúc Giang thư viện”. Đây là một thư viện cổ còn lưu giữ được đến ngày nay với hàng trăm bản khắc sách cổ trên ván gỗ, vừa là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước, biết bao Tiến sĩ, Cử nhân, Tú tài đã từng đến đây dùi mài kinh sử để thu được thành tích cao trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình ngày xưa.

Nhà thờ Nguyễn Huy Tự có tổng diện tích trên 200m2, kết cấu theo kiểu chữ Nhị (=)gồm nhà hạ và thượng điệng, phía trước có cổng, sân, tắc môn và 2 nhà bia. Cổng rộng 2m, được phân bố chính diện trước sân nhà hạ điện, hai bên tả hữu là hai cột nanh đứng sừng sững đối nhau, được xây dựng bởi đá ong, vôi vữa cao 5m, trên đỉnh có đắp hai con nghê đang chầu vào nhau, 4 mặt cột nanh đều được bài trí các câu đối, song do thời gian mưa nắng, chất lượng công trình không cao nên các chữ bị mờ không đọc được nội dung.

Nhà Hạ điện xây theo hướng nam, lợp ngói mũi, xây tường 2 đầu hồi nhà, trên 4 góc mái có đắp mặt nguyệt đầu rồng đang hướng về trước trông dữ tợn, nhà gồm 3 gian, 2 hồi, các gian nhà được kết cấu giống nhau. Gian giữa trên đường xà sau có treo một bức biển bằng chữ Hán “ Võ khố Hùng lược”. Chính giữa gian nhà có bộ phản gỗ lim chân quỳ xung quanh có chạm khắc 4 chữ Thọ và đề tài Tứ linh (long, ly , quy, phượng).

Nhà Thượng điện: gồm 3 gian trên lợp ngói mũi, 4 góc mái có trang trí các đầu đao, mặt tiền mái nhà trước có góc bể hồi văn có đắp hai con nghê đang chầu nhau, ở giữa có mặt nguyệt mây lửa bao quanh. Bài trí nội thất ở gian giữa trên đường xà trong đó có treo tấm biển sơn son có đề hai chữ “ Lưu Trai” phía dưới biển có chữ “ Tuý Hà” hai bên có treo câu đối:

“Giang sơn mệnh mạch tinh thần tại
Kim cổ khoa danh hoạn nghiệp dư”


(Mệnh mạch, tinh thần núi sông còn đó
Khoa danh hoạn nghiệp xưa nay vẫn lưu truyền)


Ở giữa có đặt hai bàn thờ bằng gỗ được sơn son thiếp vàng chạm trỗ công phu là nơi thờ cha con Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự. Hai gian bên cũng được đặt 4 bàn thờ, mỗi gian 2 bàn thờ như nhau thờ các thể thứ tổ tiên dòng họ Nguyễn Huy ở Tràng Lưu.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 09:14:19 AM
Nhà thờ Phan Kính

Nhà thờ Phan Kính, thuộc xã Song Lộc, huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh (trước đây là làng Lai Thạch, huyện La Sơn). Phan Kính sinh năm 1715 tại làng Lai Thạch một vùng quê đồng bằng trù phú, từ nhỏ ông nổi tiếng là người thông minh, năm 20 tuổi đậu Cử nhân, năm 28 tuổi đậu Tiến sĩ. Là một người học hành đỗ đạt cao, thanh liêm trung thực, kiêm tài văn võ, nội trị ngoại giao có nhiều đóng góp đối với đất nước vào những năm giữa thế kỷ XVIII. Với tài năng đức độ Phan Kính được bổ nhiệm làm nhiều chức tước khác nhau, năm 1748 ông cử đi làm Hiệp trấn Sơn Tây, nơi có cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương mấy năm trước mà triều đình bất lực chưa dẹp được. Chiến lược của Phan Kính là không nhằm tiêu diệt lực lượng mà tìm cách hoà hợp dàn xếp để làm yên dân và thoã mãn một phần nào nguyện vọng của quân khởi nghĩa. Đối với quân sỹ Nguyễn Danh Phương ông thuyết phục với thái độ thiện chí và quan điểm rõ ràng cho nên trấn Sơn Tây được thu phục và bình định nhanh gọn không hao tốn mũi tên hòn đạn. Sau đó ông được giao nhiều trọng trách, nhưng bất kỳ ở đâu và đảm trách nhiệm vụ gì Phan Kính cũng chỉ có quan điểm vì dân, vì nước nên ông đã được nhân dân ủng hộ. Đặc biệt thời kỳ ông làm Đốc đồng xứ Tuyên Quang nhờ ông mà tình hình biên giới được ổn định, chính vì uy tín của ông trong công việc mà vua nhà Thanh đã tặng Phan Kính danh hiệu: “ Lưỡng quốc Thám Hoa” và ban cho tấm áo gấm. Thấy ông ngày càng phát huy năng lực năm 1760 vua Lê giao thêm cho chức Tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hoá, song tiếc thay vì làm việc quá sức lại ở nơi khí thiêng nước độc Phan Kính đã mất tại nhiệm sở năm Tân Tỵ (1761).

Sau khi ông mất triều đình ban cho ông thuỵ là Trung hiểnS, thăng Hữu thị lang bộ Hình tước Quý dương bá, nhân dân địa phương tôn thờ và vua Lê Hiển Tôn phong sắc làm Thành hoàng (hiệu Anh Nghị Đại vương), lập đền thờ ở làng Lai Thạch có ngựa đá, voi đá, sư tử đá, theo thể thức của một vương tướng. Theo gia phả của dòng họ Phan và nhân dân địa phương cho biết, ngày trước quần thể di tích này hết sức uy nghi, đồ sộ, song đáng tiếc hiện nay do thời gian, chiến tranh, con người vô thức đã tàn phá hoàn toàn ngôi đền thờ Thành hoàng Phan Kính và ngôi chùa xây dựng cùng thời. Di tích hiện còn là nhà thờ họ Phan, thờ Phan Kính với tấm bia đá lớn do chính Phan Kính soạn nội dung văn bia vào năm 1756.

Nhà thờ Phan Kính cũng như những nhà thờ khác trong vùng có cổng, sân và nhà thờ. Cổng là 2 cột nanh được xây dựng bằng đá vôi vữa, có đôi câu đối:

“Nhân di sự, quá tắc xu
Tiền Trà sơn, hậu Linh thuỷ”.


(Có việc thì vào, không việc đi qua
Trước núi Trà, sau sông Linh)


Sân nhà thờ Phan Kính hình chữ nhật, góc trái sân có nhà bia với kết cấu theo lối chồng diêm thượng thu hạ sách. Bia đặt trong nhà bia làm bằng chất liệu đá thanh có kích thước cao 1, 65m rộng 0,86m, dày 0, 18m được đặt trên bia đá hình chữ nhật. Nội dung bia nói về gia thế, cuộc đời của Phan Kính cũng như những câu răn dạy con cháu. Nhà thờ Phan Kính được làm theo lối nhà kẻ 3 gian bằng gỗ lim lợp ngói mũi, các vì kèo có chạm trỗ một số hoạ tiết mây lá, gian giữa có hương án bằng gỗ sơn son thếp vàng, lư hương 3 mâm gỗ tròn. Đặc biệt nơi tiếp giáp giữa gian trái gian phải và gian giữa có đặt 2 giá kiếm gồm hai siêu kiếm, hai thẻ gỗ được trang trí đầu rồng xung quanh, có ghi chữ Hán “ Thưởng tượng cần, chính phủ đường thưởng tổng đốc Vân Nam lưỡng viện”. Đây là phần thưởng mà thời gian Phan Kính đi kinh lý ở vùng biên giới và được triều Thanh ban thưởng.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 09:19:21 AM
Nhà thờ và mộ Lê Bôi

Lê Bôi là vị khai quốc công thần triều Lê, ông sinh năm 1380 tại xã Tình Di, huyện Đỗ Gia, nay là xã Sơn Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong một gia đình khoa bảng. Sinh ra trong bối cảnh đất nước loạn lạc, giặc Minh xâm lược ông đã tập hợp lực lượng luyện tập võ nghệ chờ thời cơ đánh giặc. Nghe tin Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa Lê Bôi đã tìm về được Lê Lợi phong cho làm tướng chỉ huy một đội quân 500 người ở tại quê hương, và lần đầu tiên xuất trận bằng chiến thắng vang dội ở Khả Lưu Bồ Ải (huyện Thanh Chươngh - Nghệ An). Sau đó Lê Bôi tham gia giải phóng Tân Bình, Thuận Hoá (1425) rồi vây đánh thành Nghệ An khi chủ tướng Lê Lợi kéo quân ra Bắc (1426-1427). Công lao đánh giặc của Lê Bôi đều được sử sách ghi chép sau khi đánh bại quân Minh, Lê Lợi xưng Vương ban thưởng cho các văn thần võ tướng tất cả có 93 người trong đó Lê Bôi đứng hàng thứ 3 trong 14 Liệt hầu hay trong 26 Á hầu được ăn lộc một ấp. Đó cũng là lý do Lê Bôi từ Tình Di chuyển đến Việt Yên và trở thành thuỷ tổ của họ Lê ở xã Tùng Ảnh ngày nay. Sau khi ông mất 1458, con cháu dòng họ và nhân dân địa phương lập đền thờ tại xóm Bá Hiển, sau bị bom giặc Mỹ phá hỏng hoàn toàn, nên chuyển về thờ tại nhà thờ chi 3 họ Lê đại tôn thuộc xóm Vọng Sơn, thuộc xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ ngày nay.

Nhà thờ Lê Bôi quay hướng đông bắc, có khuôn viên, tường rào bao quanh 3 mặt, bao gồm các công trình: bể cạn, tắc môn, sân và nhà thờ. Nhà thờ gồm 2 gian được làm bằng gỗ mít, tường xây gạch 3 mặt, mái lợp ngói vảy, kết cấu vì kèo làm theo kiểu nhà kẻ, chồng đấu, nhà được làm vào năm Kỷ Hợi triều vua Minh Mạng (1839). Bố trí mặt bằng kiến trúc theo chiều dọc, gian ngoài hẹp hơn, để trống thay chức năng của nhà bái đường, gian trong rộng hơn là nơi thực hiện các nghi lễ tế tự, đặt hương án, bàn thờ, long ngai và các đồ thờ khác.

Mộ Lê Bôi gồm 2 công trình chính: Mộ thủy tổ Lê Bôi được trùng tu vào năm 1937 và khu nền thờ tổ họ Lê xây dựng từ năm 1990. Cổng chính rộng 2m có hai cột nanh cao 4, 2 m bệ vuông, phía trước có hai câu đối:

“ Nhật nguyệt chiếu quang minh Tùng La chung tú khí
Lê tộc đức kế thế Bạch Tượng tư khoa danh”

(Nhật nguyệt soi sáng tùng La chốn khí thiêng hun đúc
Hộ Lê đức rạng Bạch Tượng nơi khoa danh tụ hội)


Qua cổng chính 3m là đến Tắc môn hình chữ nhật, mặt trước đắp nổi hình mặt rồng, rồi đến nền thờ tổ xây nền lát gạch đỏ Cẩm Trang. Ngôi mộ táng ông bà Lê Bôi được xây dựng hình khối hộp chữ nhật dài 4, 6 m rộng 3, 5 m và cao 2, 1 m. bao xung quanh mộ là hệ thống tường đất xây 3 phía cao1,2m; 4góc có xây 4 trụ vuông mặt trớc của 2 trụ tường có đôi câu đối chữ Hán, viết rất đẹp:

“Khí phách tồn thiên địa
Tinh thần tại tử tôn”.


( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 09:24:40 AM
Nhà thờ Phan Đình Phùng

Nhà thờ Phan Đình Phùng thuộc làng Đông Thái xã Tùng Ảnh huyện Đức Thọ. Phan Đình Phùng là một nhân vật lịch sử tiêu biểu của dân tộc ta, ông sinh ngày 06/6/1847 ở làng Đông Thái trong một gia đình có truyền thống khoa bảng. Ông nổi tiếng từ nhỏ là người có chí khí và chăm học, năm 29 tuổi đỗ Cử nhân và 30 tuổi đỗ Tiến sĩ. Con đường làm quan của ông gặp nhiều chông gai trắc trở. Năm 1884 ông bị cách chức và đổi về quê. Năm 1885 hưởng ứng chiếu Cần vương, ông đã tham gia ngay từ đầu và trở thành lãnh tụ của phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp trong hơn 10 năm trời (1885-1895), lấy khu căn cứ Vũ Quang làm đại bản doanh, làm thất điên bát đảo quân xâm lược và bè lũ tay sai. Ông mất vào ngày 28/12/1895 tại khu căn cứ Vũ Quang.

Sau khi ông mất, nhân dân địa phương đã lập nhà thờ để ghi nhớ công ơn của ông đối với đất nước và quê hương. Năm 1951, nhà thờ bị bom của thực dân Pháp ném trúng hư hỏng một phần không có điều kiện sữa chữa, cho nên dòng họ đã bán ngôi nhà thờ về xã Đức Long huyện Đức Thọ làm trụ sở của HTX. Khoảng năm 1990-1991, ngôi nhà này lại bị bán về làm nhà ở của hộ dân xã Đức Nhân. Sau nhiều năm tìm kiếm xác minh, ngành văn hoá thông tin Hà Tĩnh đã chuộc lại và đem về dựng lại trên nền nhà cũ để làm nơi thờ tự Phan Đình Phùng như vốn ban đầu của nó. Hiện nay nhà thờ có cấu trúc bao gồm hệ thống tường rào, cổng cột nanh và ngôi nhà thờ trong một khuôn viên rộng 500 m2, xung quanh là khu dân cư. Trên 2 cột nanh có khắc đôi câu đối bằng chữ Hán:

“Công tại chiến trường danh tại sử
Sinh nhi vi tướng tử vi thần”


Nhà thờ xây tường gạch 3 phía, phía trước lắp hệ thống cửa gỗ kiểu “thượng song hạ bản”, nhà làm bằng chất liệu gỗ lim và mít với 3 gian 4 vì kèo. Các đuôi xà ngang và đuôi kẻ đều chạm nổi các hoa văn trang trí hình đao bay, dây lá và biểu tượng bao kinh. Mái lợp ngói mũi hài. Trên bờ nóc đắp rồng chầu mặt nguyệt và hổ phù, các góc mái có gắn đao, guột hình rồng hài hoà với kiến trúc của ngôi nhà. Nội thất có đặt bàn thờ Phan Đình Phùng với di ảnh chân dung, giá ngai, lư hương đồng, bình hoa sứ và ống hương bằng gỗ.Trước bàn thờ có đặt giá cắm binh khí gồm 8 loại khác nhau. Toàn bộ nhà thờ được tôn tạo phục hồi vào năm 2004 vẫn giữ được tính nguyên gốc của nó ban đầu.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 09:29:19 AM
Nhà thờ và mộ Trịnh Khắc Lập

Trịnh Khắc Lập quê tại làng Đông Hội, nay là xã Xuân Thành huyện Nghi Xuân. Ông là một nhà chí sĩ yêu nước, từng tham gia phong trào Cần vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo, thành viên Hội Duy tân do Phan Bội Châu khởi xướng. Năm 1908 cùng với Nguyễn Hàng Chi, ông là một trong những ngưởi khởi xướng lãnh đạo cuộc bạo động chống sưu thuế ở Hà Tĩnh. Bị thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai bắt và xử chém tại huyện lỵ Nghi Xuân vào cuối năm 1908, bêu đầu ở chợ huyện. Nhân dân địa phương và người thân trong gia đình đã đấu tranh để đưa thi hài ông về mai táng tại quê nhà. Con cháu dòng họ đã lập nhà thờ hương khói thờ phụng và lập mộ chí cho ông.

Nhà thờ được xây dựng ở vị trí trung tâm của xã Xuân Thành, bên bờ bãi tắm thơ mộng. Do ở gần biển nên kiến trúc nhà thờ cũng được cấu tạo theo mô tip của nhà ở cư dân vùng ven biển, thấp và chắc để tránh gió bão. Nhà thờ quay về hướng Nam, với cấu trúc 3 gian, kết cấu đơn giản sử dụng theo hướng dọc của ngôi nhà. Từ ngoài vào gian thứ nhất được bố trí làm tiền sảnh. Mặt tiền có 2 hàng cột quyết, trên đắp một số câu đối bằng chữ Hán, đáng chú ý có câu:

“Công đức bất thiên quang tạo hữu
Tinh thần như tại kiến tường giang”


(Công đức ấy sáng ngời đất nước
Tinh thần này vằng vặc non sông).


Mặt trên của tiền sảnh đắp nổi hình lưỡng long chầu nguyệt, tọa trên một cuốn thư đắp nổi 4 chữ Hán “Trịnh Khắc Lập từ” (Nhà thờ Trịnh Khắc Lập). Qua tiền sảnh là vào gian điện thờ, phía trên có bức đại tự “Trung nghĩa đường”, ở đây chính giữa có hương án, trên đó đặt long ngai bài vị thờ Trịnh Khắc Lập. Hai bên là bàn thờ các gia nhân vọng tộc có tiếng trong họ.

Mộ Trịnh Khắc Lập trước đây được táng ở một khu đất thuộc khuôn viên gia đình ông. Năm 1995 con cháu và chính quyền địa phương đã di dời ra sau nhà thờ của ông, tạo thành quần thể “tiền miếu hậu lăng”. Mộ được xây dựng với quy mô lớn theo kiểu chữ Công, xung quanh mộ có tường bao, trên đầu mộ có dựng bia đá đề chữ “Phần mộ Chí sĩ yêu nước Trịnh Khắc Lập (1870-1908).

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 09:34:22 AM
Nhà thờ Cao Thắng

Nhà thờ Cao Thắng nằm trên một ngọn đồi nhỏ thuộc xóm 6 xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn. Cao Thắng là một người tâm phúc của Phan Đình Phùng, một vị tướng trẻ tuổi, tài giỏi, gần 10 năm trời cùng với chủ tướng Phan Đình Phùng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống thực dân Pháp xâm lược và tay sai vào những năm cuối thế kỷ XIX. Ông còn là người nghiên cứu và chế tạo loại súng trường theo kiểu 1874 của Pháp thời bấy giờ để đánh lại quân xâm lược Pháp. Sau khi ông mất bởi bàn tay của kẻ thù vào năm 1893, con cháu dòng họ Cao cùng nhân dân địa phương đã lập nhà thờ tại quê hương để thờ phụng và đời đời biết ơn vị anh hùng dân tộc.

Nhà thờ Cao Thắng nằm trong khu dân cư, mặt ngoảnh về hướng đông -nam, được xây dựng vào năm 1907, sau 14 năm ngày mất của ông. Nhà làm bằng gỗ lim, 3 gian 4 vì kèo kết cấu theo kiểu kẻ chuyền, mái lợp ngói vảy, 2 tường hồi xây tường bịt đốc, cửa ra vào làm theo kiểu pa nô hộp. Trước hiên nhà thờ có đôi câu đối bằng chữ Hán:

“Phúc địa ức niên bồi khí mạch
Lê đình vạn đại túc y quan”


Nội thất nhà thờ bài trí đơn giản gồm có long ngai, bài vị và giá gương được sơn son thếp vàng, các đồ thờ theo truyền thống.

( Sở Văn hoá Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 09:39:32 AM
Đình Đỉnh Lự

Đình thuộc làng Phù Lưu, huyện Thiên Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Can Lộc, một xã nằm dưới chân núi Hồng Lĩnh. Đầu thế kỷ 16, nhân dân ở đây quyên góp tiền xây dựng đền thờ Nguyễn Xí, một danh tướng của Lê Lợi. Từ đầu là một ngôi đền thờ nhỏ, sau phát triển thành một ngôi đình làng, với một hậu cung 5 gian nhà ngói và các công trình phụ. Đình trở thành một nơi sinh hoạt, hội hè của nhân dân trong vùng và các làng lân cận. Mỗi năm đến ngày khai hạ hay ngày lễ kỳ phúc (20-5 âm lịch) dân làng đến đình tế lễ.

Đình đỉnh lự còn là di tích lịch sử cách mạng trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, là nơi hội họp, tổ chức chỉ đạo các cuộc biểu tình của Chi bộ Đảng những năm 1930-1931. Kiến trúc đình gồm 5 gian, dài 8m, rộng 4m, mái chồng diêm, lợp ngói vảy, kiến trúc kiểu tứ trụ, thưng ván gỗ. Thượng điện gồm 1 gian, cao 5m, cột gỗ, mái uốn vòm, trang trí hình rồng, phượng rất tinh xảo.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 09, 2008, 09:44:34 AM
Đình Hội Thống

Làng Hội Thống dựng ngôi đình gọi là đình Kiên Nghĩa cùng thời gian với đình Trung Nghĩa ở Tiên Điền, theo chữ khắc trong đình thì Đình Hội Thống làm từ năm Kỷ Hợi (1659) và hoàn thành năm Canh Tý (1660) do 8 chủ mành trong làng đóng góp 8 vì, còn lại do nhân dân đóng góp. Trong đình có tấm biển khắc 3 chữ vàng vua ban: Kiên Nghĩa xã. Đời Nguyễn đình Hội Thống được tiếp tục tu tạo càng đẹp đẽ hơn, trong đình còn có tấm biển khắc bốn chữ “ Thánh trạch quân ân” (Lộc thánh ơn vuaL) và đôi liễn “ Vạn cổ ân quang viễn.Thiên thu huệ trạch trường” (muôn thuở ơn sáng rọi. Nghìn thu huệ trạch ngờim).

Đình Kiên Nghĩa là niềm tự hào của người dân Hội Thống:

“ Vạn vật giai Nghi Xuân vũ trụ.
Cửa châu thử Hội thống châu xa”


(Muôn vật sắp bày xuân vũ trụ
Chín châu gân hội nhóm thuyền xe)


( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 10, 2008, 10:57:15 PM
Đình Hoa Vân Hải

Đình Hoa Vân Hải thuộc làng Vân Hải tổng Cổ Đạm, nay là xã Cổ Đạm huyện Nghi Xuân. Đình là thờ thành hoàng của làng và là nơi sinh hoạt văn hoá văn nghệ của nhân dân, nhất là hát ca trù Cổ Đạm nổi tiếng. Trong quá trình tồn tại và phát triển, đình Hoa Vân Hải là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, là nơi ra đời của nhiều tổ chức cách mạng tiền bối như Tân Việt cách mạng đảng, Đông Dương cộng sản đảng ở huyện Nghi Xuân, đặc biệt trong cao trào Cách mạng 1930-1931, đình là nơi hoạt động của các cán bộ xứ uỷ Trung kỳ, Tỉnh uỷ lâm thời Hà Tĩnh và là nơi thành lập Đảng bộ lâm thời huyện Nghi Xuân vào ngày 12/5/1930. Sau đó đình trở thành trụ làm việc, hội họp, cơ quan ấn loát tài liệu tuyên truyền của đảng bộ Nghi Xuân, và là trung tâm đầu não chỉ huy của Đảng trong cao trào 1930-1931 ở huyện Nghi Xuân. Đồng thời đình Hoa Vân Hải còn là trụ sở làm việc đầu tiên của chính quyền Xô viết ở phái bắc tỉnh Hà Tĩnh.

Đình được xây dựng vào năm 1639, ban đầu chất liệu bằng gỗ lợp tranh với 5 gian, phía sau là nhà hậu cung dùng làm nơi thờ thành hoàng. Năm 1932 đình bị thực dân Pháp đốt cháy hoàn toàn. Sau năm 1945, nhân dân địa phương đã tiến hành tu sữa. Kiến trúc hiện tại của đình theo kiểu chữ Nhị (=),nằm trong không gian rộng 1n, 2ha. Phái trước có nhà hoá hương được xây dựng theo hình tháp 3 tầng. Cách một sân nhỏ là nhà bái đường được xây dựng với kết cấu đơn giản và chắp vá với 3 gian 4 vì kèo, mái lợp ngói tây, xà ngang bằng sắt, nền lát gạch nung, 2 đầu hồi gác tường bịt đốc, mặt trước và sau để trống tạo nên sự thoáng đạt cho các hoạt động lễ hội. Phía sau là nhà Hậu cung (hay thượng điện) với kết cấu 3 gian, 2 vì giữa xây bằng gạch uốn vòm, 2 đầu hồi và các trụ được đổ bằng bê tông cốt thép chịu lực sơn màu giả gỗ. Mái lợp ngói âm dương, nền láng xi măng. Nội thất có bàn thờ thành hoàng của làng và những người có công với nước và làng.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 10, 2008, 11:02:12 PM
Đền Quan Thánh - Võ Miếu.

Cuối đường Phan Đình Phùng về phía đông bắc khoảng 200m, trên địa phận phường Tân Giang, thị xã Hà Tĩnh, có một ngôi đền cổ kính, với ngôi thượng điện 8 mái, đường giải đỉnh với những đầu rồng cách điệu cao vút vượt lên cả không gian xung quanh, đó là đền Quan Thánh, còn gọi là Võ Miếu.

Võ Miếu ban đầu chỉ là ngôi nhà gỗ lợp tranh, đến năm 1898 mới được xây dựng lợp ngói, nhưng hơn 20 năm sau bị hư hỏng nặng. Đến năm 1922 (Khải định năm thứ 7) Võ Miếu được sửa chữa lại, bổ sung và mở rộng như ngày nay. Nguyên xưa Võ Miếu chỉ thờ có Quan Thánh, trong đó có thờ tượng quan Thánh lớn đặt ở giữa, hai bên là tượng Châu Bình và Châu Xương. Võ Miếu xây dựng quy mô lớn trên diện tích dài 70m, rộng 44m, cấu trúc theo kiểu chữ “ Môn”, với cổng Tam quan, hai toà nhà hạ và thượng điện, quay hướng Nam. Các bộ phận nội ngoại thất liên hoàn chặt chẽ, đăng đối và hài hoà.

So với nhiều di tích trên địa bàn Hà Tĩnh, cổng Tam quan Võ Miếu có quy mô và kiến trúc đẹp với chất liệu gạch đá vôi vữa người thợ ở đây đã biết vận dụng không gian ba chiều vừa tách bạch vừa liên hoàn và trang nghiêm. Hai bên cổng có hai cột nanh to lớn trên đỉnh có đắp hai con nghê đang chầu. Cổng có 3 cửa ra vào phía trên được trang trí mặt hổ phù, chim phượng cuốn thư phía dưới có đề 3 chữ “Quan Thánh từ” và đôi câu đối:

“Đức quảng vận thánh thần văn võ
Khí lưu hình hà nhạc nhật tinh”


(Đức lớn của vua rộng xa đến thánh thần văn võ
Khí thiêng hiện hình ở sông núi trăng sao).


Nhà Hạ điện dài 10, 6 m và rộng 8, 7 m với 3 gian xây tường bao quanh. Cửa chính hình vòm cung trên có 3 chữ Hán “ Trạc quyết linh”. Hai cửa hai bên có cấu trúc giống nhau trên có hai chữ Hán “ Trung Can” và “ Nghĩa Khí”, nối tiếp giáp cổng giữa và 2 cửa hai bên trong đó đặt 2 pho tượng mà dân gian quen gọi là ông Thiện và ông Ác (khuyến thiện, trừ ác). Xung quanh có treo nhiều biển gỗ sơn son thiếp vàng khắc chữ Hán như: “ Tích chi quang”, “ Trung hữu thần võ” “ Thiên thu chính khí” ... hai bên trụ tường bao phía sau có treo đôi câu đối bằng chữ Hán làm năm 1935:

“Mã sử bút đoan tồn chính khí
Liên thành khổn ngoại tứ linh thanh”


(Chính khí còn ghi trong mã sử
Linh thanh mãi vọng chốn Liên Thành)


Nhà Thượng điện là một ngôi nhà chồng diêm 8 mái, gian giữa có một hương án sơn son trang trí đẹp trên đó bài trí các đồ thờ, tiếp đến là bệ long ngai đặt 4 pho tượng bằng gỗ sơn son đó là tượng Quan Công (chính giữa) xung quanh là tượng Châu Bình, Châu Xương và Trần Hưng Đạo .

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 10, 2008, 11:12:22 PM
Đền thờ Nguyễn Thiếp

Nguyễn Thiếp (1723-1804) sinh ra và sống trong một giai đoạn lịch sử rối ren với những biến cố dữ dội của đất nước nửa sau thế kỷ XVIII, ông là một nhà nho hiền triết nổi tiếng thời Lê Trịnh, Tây Sơn. Nguyễn Thiếp với một nhãn quan nhìn xa trông rộng ủng hộ cộng tác với vua Quang Trung, ông đã vượt lên khỏi tầm nhìn của giới nho gia đương thời. Đó là sự vượt trội trong tư tưởng của ông, khi mà những tư tưởng “ Kinh bang tế thế” chưa được thi thố tài năng và thực thi bao nhiêu thì vua Quang Trung đột ngột qua đời. Nhưng những gì ông làm được đủ chứng minh một tấm lòng ưu dân, ái quốc, một nhân cách lớn của kẻ sĩ. Vì vậy khi ông qua đời nhân dân đã lập đền thờ để ghi nhớ công lao và thờ phụng ông.

Đền thờ Nguyễn Thiếp thuộc địa phận xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, được xây bằng gạch, lợp ngói mũi, gồm hai vì cột, kèo kẻ và hệ thống xà dọc gác vào hai tường đốc tạo thành một nhà có 3 gian khiêm tốn. Ngoài ý nghĩa văn hoá lịch sử đền thờ La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp còn mang một giá trị kiến trúc nghệ thuật qua các hoạ tiết điêu khắc chạm trỗ với các đề tài quen thuộc “ long, ly, quy, phượng”, không đô sộ nhưng mềm mại uyển chuyển, bố cục bài trí của các mảng chạm khắc gỗ hợp lý hài hoà, mang đậm phong cách kiến trúc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Hiện vật gồm có: bát hương sành sứ, lư hương, long ngai thần chủ, mâm gỗ, sắc phong thần, chiếu chỉ, hộp đựng sắc được bài trí trong đền thờ mang dấu ấn của một giai đoạn lịch sử.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 10, 2008, 11:23:38 PM
Đền thờ Hà Tôn Mục

Di tích thuộc xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc thờ Đình Nguyên Tam giáp Tiến sỹ Hà Tôn Mục.

Hà Tôn Mục (1653- 1707) đỗ Tiến sĩ năm 1688, ông là một nhà ngoại giao lỗi lạc, nhờ tài đàm phán của mình đã giúp triều đình Lê -Trịnh tránh khỏi binh đao với quân nhà Thanh năm 1699.

Sau khi mất triều đình chuẩn y tặng: “Đặc tiến kim tử vinh lộc Đại phu công bộ Thượng thư Hoan lĩnh tứ. Đặt thuỵ là Mẫu đạt”.

Nhân dân và dòng họ lập đền thờ ông tại quê hương, nhà thờ ngoảnh mặt hướng Bắc, có kiến trúc theo kiểu chữ Nhị, gồm hai bộ phận chính là nhà Hạ điện và thượng điện ngoài ra còn có nhà bia và tắc môn.

( Sở Văn hoá - Thông tin )



Đền thờ Ngô Thị Ngọc Giao

Đền còn có tên gọi là đền Đồng Cần, một di tích có giá trị nghệ thuật và gía trị lịch sử cao. Theo truyền thuyết để lại, đền thờ Hoàng Hậu Ngô Thị Ngọc Giao - mẹ vua Lê Thánh Tông. Trong lần Vua ngự giá thân chinh đi dẹp giặc Chiêm Thành, bà cùng đi với Vua, khi thắng trận trở về bà đã mất và được chôn cất tại vùng Đồng Cần, sau đó cải táng về quê ở Thanh Hoá. Để tưởng nhớ công lao to lớn của bà nhân dân đã lập đền thờ tại Đồng Cần.

Đền được phân bố trên một vùng phong cảnh đẹp có diện tích dài 80m rộng 50m, kết cấu kiến trúc chữ Nhị, chất liệu bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài, nội thất chạm khắc những đề tài tứ linh, tứ quí quen thuộc. Các công trình gồm: Nhà hạ điện, thượng điện, bên trong đặt bàn thờ Hoàng hậu với những đồ thờ truyền thống.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 10, 2008, 11:29:51 PM
Đền Voi Mẹp

Theo truyền thuyết, vào thế kỷ XV, khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần. Lợi dụng cơ hội đó giặc Minh nhảy vào xâm lược nước ta, vua nhà hậu Trần là Trần Trùng Quang kêu gọi nhân dân đứng dậy khởi nghĩa đánh quân Minh. Hưởng ứng lời kêu gọi đó, nhân dân khắp nơi đứng lên chống giặc. Trong số đó có nữ tướng quê ở Hà Tĩnh, tục truyền gọi là "Nữ tướng Châu chấu". Bà đã cầm quân đánh giặc Minh, lập được nhiều chiến công lớn. Nhưng không may bà bị hy sinh, để tưởng nhớ công ơn của bà, nhân dân lập đền thờ ở vùng Kẻ Ngù để ghi nhớ công ơn.

Đền Voi Mẹp được xây dựng trên một khu đất cao ráo, xung quanh cây cối um tùm. Phía trước là dòng sông và có chợ chùa nổi tiếng. Đền có quy mô đồ sộ, với cổng, cột nanh, tiếp theo là ba toà nhà bằng gỗ lim to, kiến trúc chữ "tam". Bên trong chạm trổ tinh vi, với nhiều đề tài phong phú, đa dạng. Nhiều kiểu chạm lộng và khắc rất tinh xảo với những đề tài như: rồng ngậm ngọc, hoa sen, cuốn thư...

Với giá trị lịch sử và nghệ thuật còn lại trên những xà, kẻ của ngôi đền, thì đền Voi Mẹp xứng đáng là một di tích tiêu biểu của vùng Đức Thọ văn vật và là niềm tự hào của kiến trúc Hà Tĩnh.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 10, 2008, 11:36:47 PM
Đền Thái Yên

Đền nằm trên mảnh đất cao bằng phẳng đầu làng của xã Thái Yên, huyện Đức Thọ. Với mặt bằng kiến trúc thoáng đãng rộng rãi đền Thái Yên được xây dựng khá đồ sộ gồm 3 toà Hạ, Trung và Thượng điện với nghệ thuật chạm trổ tài hoa, điêu luyện, đền như một bảo tàng cổ vật chạm trổ, điêu khắc gỗ là dấu ấn của bàn tay lao động qua nhiều thế hệ của làng mộc Thái Yên nổi tiếng .

Nghệ thuật kiến trúc của đền Thái Yên mang đậm kiến trúc đền đình truyền thống từ bố cục không gian đến bài trí nội thất. Trong đó nét độc đáo và giá trị nhất của đền Thái Yên là nghệ thuật điêu khắc chạm trỗ, các kết cấu nhà đền cùng với các sản phẩm chạm trỗ như các phù điêu long kiệu, hương án lư hương hệ thống bài vị long ngai, tượng phổng cùng các đồ tế khí khác như long đao, chân đèn, kiếm, đại đao toát lên một phong cách thanh thoát, giản dị, mộc mạc, nhẹ nhàng có sức bao quát cao nhưng không cầu kỳ.

Ngoài kỹ thuật bào ghép tạo dáng chắc khoẻ của phong cách nghề mộc Thái Yên, các chi tiết chạm trỗ trong đền đều theo chủ đề trong các điển tích ngày xưa với phong cách dân gian rất rõ nét. Hổ giắt răng, rồng đau mắt, tích ông Biểu thức, tích Thuấn canh lịch sơn, nhị thập tứ hiếu... ngoài ra còn chú trọng các đề tài hoa lá hay tích Tam điểm, đề tài động vật ngoài tứ linh còn có long mã, các chép, hươu, hạc.

Đặc biệt đồ tế khí trong đền gồm nhiều loại hình§, có giá trị lớn. Từ hai quả chuông đồng đúc nỗi 2 chữ Thái Yên hay "Vĩnh phúc tự chung" (chuông chùa Vĩnh Phúc) chuyển từ chùa Vĩnh Phúc về treo ở đây cho đến các bộ long đao, bát bão, bữu tượng, quy hạc, các lư hương chạm bằng gỗ quý... tất cả đều thể hiện rõ tư duy thẩm mỹ của nhiều đời thợ mộc Thái Yên.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 10, 2008, 11:42:29 PM
Đền thờ và mộ Ngô Đăng Minh

Đền thờ và mộ Ngô Đăng Minh thuộc xã Hà Linh, huyện Hương Khê. Ngô Đăng Minh sinh ra trong một gia đình dòng dõi vọng tộc, được sự dạy dỗ của cha là Hiệu sinh Ngô Đăng Quang nên ông được rèn luyện học tập nghiêm chỉnh cùng với trí thông minh. năm Chính Hoà thứ 15 (1694) Ngô Đăng Minh, người đã lĩnh bảng vàng trong kỳ thi Đình ở Thăng Long, được vua ban sắc phong "Đặc tiến kim tứ Vinh lộc Đại phu, Tư lễ giám, Hữu đề điểm trụ quốc thượng ban, Án trung bá".

Năm Chính Hoà thứ 25 giặc Bồn Man xâm chiếm bờ cõiN, Ngô Đăng Minh lên đường dẹp giặc khi thắng lợi trở về được sắc phong là "Đặc tiến Kim tứ, Vinh Lộc đại phu, tư lễ giám, tả đề điểm, án trung hầu trụ quốc thượng lên". Bờ cõi yên Ngô Đăng Minh lại góp sức mình vào việc phát triển kinh tế, mở mang dân trí, giúp dân nghèo. Ông mất ở Thăng Long, nhà vua cho chở quan tài về quê tại làng Trúc Lâm, nhân dân và con cháu dòng họ Ngô xây lăng mộ và lập đền thờ tại quê nhà. Nhà vua ban sắc hiệu cho ông là: "Bản thuộc thành hoàng, Dực bảo trung hưng quang ý, Trung đẳng thần tôn thần".

Đền thờ và mộ Ngô Đăng Minh là một kiến trúc cổ những đồ tế khí, đại tự câu đối có giá trị nghệ thuật cao. Hạ điện được xây dựng trên một sườn đồi, trên cùng gian giữa có treo bức đại tự sơn son chữ đen: “ Quang Tiền dư hậu” phía dưới có bức đại tự “ Vĩnh ngôn hiếu tư” và hai bên có câu đối:

Đức tháo thiên bồi Hồng Lĩnh tú

Phúc nguyên địa dẫn Trúc giang thanh.

Toà Thượng điện được đặt cao hơn hạ điện 1, 1 m theo hình thế tự nhiên của sườn dốc. Gian trước đặt hương án chân đèn mâm bồng gian trong đặt bệ thờ theo kiểu chân quỳ dạ c á, trên bệ đạt long ngai có linh chủ của Ngô Đăng Minh.

Trong thời kỳ cận hiện đại, đền thờ Ngô Đăng Minh là nơi chứng kiến sự kiện lịch sử cách mạng 1930-1931, là nơi thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên tại Hương Khê. Nhưng giá trị lớn nhất của di tích, đây là đền thờ và mộ của một nhân vật học rộng tài cao được phong tước hầu có công trong việc cầm quân dẹp loạn mở mang việc học hành, nâng cao dân trí tổ chức chiêu tập dân nghèo khai hoang lập ấp phát triển kinh tế tạo dựng cuộc sống ở thế kỷ 18.

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 11, 2008, 10:49:28 PM
Đền Trầm Lâm

Đền Trầm Lâm (hay còn gọi đền Trăm Năm) ở làng Phú Gia, tổng Chu Lễ, nay là xã Phú Gia, huyện Hương Khê. Xét sách Lễ Chí nhà Minh: Đền Trăm Năm này cũng là một trong những 6 ngọn nước có tiếng ở An Nam. Năm Hồng Vũ thứ 3 (1370) vua Thái Tổ nhà Minh đã sai sứ sang tế ở xứ này. Tục truyền rằng, nước trong hồ một năm có 4 mùa và biến ra 4 sắc, xanh, hồng, trắng, đen. Kề trên bờ hồ, chổ đất cao ráo, có miếu thấp nhỏ trên lợp bằng lá tro, dưới xây bằng gạch có đựng cái khảm trong có toà long ngai thờ một vị thánh Thiên Thần. Miếu ấy không biết sáng tạo từ bao giờ tục gọi là Đền “Trăm năm” hoặc gọi là miếu “Trầm Lâm” (rừng chìm)

Vị hiệu thần đền, theo sắc phong đời Lê, Nguyễn là "Bản xứ thánh mẫu Trầm Lâm kiêm lục quốc, thượng triều kim khuyết, hạ thấu long cung, Thanh y anh linh hiển ứng diệu ngọc thánh vương thiên thần". Ngoài ra còn có hai vị thần được thờ vọng là "Mã vòng công chúa” và “Thập nhị thiên tiên nương". Trong đền có đôi liễn khắc do Thái tử Thiếu Bảo Nguyễn Chính (nguyên Tổng đốc Nghệ An) cúng.

"Công phù đại địa trung hưng thánh
Danh trấn nam thiên thượng đẳng thần"


và bức hoành do Trực cơ khâm sai đại thần (không rõ tên) cung tiến đề 3 chữ. "Nghiễn thiên mộ".

( Sở Văn hoá - Thông tin )
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 11, 2008, 10:54:15 PM
Đền thờ Nguyễn Văn Giai

Đền thờ Nguyễn Văn Giai thuộc xã Ích Hậu huyện Can Lộc. Ông sinh năm Giáp Dần (1554) một tướng của nhà Lê có công lớn về mặt quân sự và ngoại giao trong việc phù Lê diệt Mạc. Ông từng làm quan 3 triều trong 48 năm, với công lao to lớn được các triều đại phong kiến ghi danh công trạng và sau khi ông mất được nhân dân lập đền thờ tại quê nhà.

Đền thờ Nguyễn Văn Giai được xây dựng trên một khu đất rộng 6.628m2, ngôi đền ngoảnh theo hướng tây và thấp dần theo hướng đông bắc, phía trước đền có cột nanh đắp nỗi hai con nghê chầu được ghép bằng các mãnh sành sứ. Đền thờ gồm hai bộ phận Thượng điện và Hạ điện, ngoài ra còn nhà bia, nhà hậu, tắc môn. Nội thất được trang trí tinh xảo với nhiều đề tài quen thuộc, long, ly, qui, phượng. Đây là một kiến trúc mang ý nghĩa Nho giáo và thường được sử dụng để tế trời đất mong mưa thuận gió hoà quanh năm.

Hàng năm cứ đến ngày 13 tháng Giêng con cháu dòng họ và nhân dân địa phương tập trung về đền thờ làm lễ kị ôngH, ôn lại quá khứ rất đỗi tự hào của Tiến sĩ Nguyễn Văn Giai người đã cống hiến cuộc đời vì sự nghiệp, giúp dân cứu nước, giữ bình yên trăm họ.
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 03:34:15 PM
Đền Phương Giai

Tại xã Kỳ Bắc, huyện Kỳ Anh có một ngôi đền cổ kính đó là đền Phương Giai thờ Hoàng giáp Dương Trí Tri, một ông quan có tài và nhiều công lao to lớn trong việc bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân vào thời nhà Mạc. Tục truyền rằng vào thời đó tại vùng phía bắc huyện Kỳ Anh có dịch bệnh đậu mùa trẻ em ông Hoàng giáp chỉ có những vị thuốc Nam đã cứu được rất nhiều trẻ em thoát khỏi nạn dịch trở về cuộc sống. Với công lao đó sau khi ông mất nhân dân địa phương đã lập đền thờ.

Đền Phương Giai ngoài ý nghĩa tâm linh, trong giai đoạn lịch sử hiện đại còn có ý nghĩa lịch sử cách mạng, đó là nơi diễn ra Đại hội thành lập Đảng bộ huyện Kỳ Anh và trụ sở UBND huyện Kỳ Anh trong thời kỳ Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Đền xây dựng trên diện tích một mẫu 5 sào Trung Bộ, cao hơn diện tích xung quanh 1, 5m ngoảnh mặt hướng đông bắc. Ngày xưa đền có 3 to à, kết cấu chữ Tam lợp ngói vẫy, có tường bao quanh. Ngày nay do chiến tranh và thiên nhiên tàn phá hệ thống tường, cột nanh, cổng tam quan, nhà Thượng điện bị phá huỷ, chỉ còn lại nhà Hạ điện và Trung điện. Kiến trúc các ngôi nhà đơn giản, theo lối truyền thống của nhân dân địa phương.
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 03:38:59 PM
Đền thờ Ngô Phúc Vạn

Đền thờ Tào Quận công - Thái bảo Ngô Phúc Vạn (hay còn gọi Từ Đường họ Ngô), thuộc địa phận làng Phúc Lộc, xưa là xã Đan Liêu, thời Lê là xã Trảo Nha huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, sau đổi thuộc huyện Thiên Lộc, sang thời nhà Nguyễn đổi là huyện Can Lộc, hiện nay thuộc xã Đại Lộc, huyện Can Lộc.

Ngô Phúc Vạn (1577-1652) người làng Trảo Nha, xuất thân con nhà tướng, là người văn võ toàn tài không chỉ võ nghệ cao cường, thông hiểu binh thư trận pháp mà thánh kinh hiền truyện, thiên văn, địa lý, toán học đều tinh thông cả. Ông là một trọng thần, một danh tướng của triều đình Lê -Trịnh có nhiều công lao đóng góp giữ yên bờ cõi bảo vệ chính đường, khẩn hoang ruộng đất đưa lại lợi ích cho trăm họ trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động ở nước ta cuối thế kỷ 18. Ngô Phúc Vạn làm quan đến chức Thái bảo, tước phong là Quận công, về già trở thành một đạo sĩ thông hiểu nho y lý số, khi mất được nhân dân địa phương lập đền thờ tại quê nhà.

Đền thờ gồm hai nhà kết cấu theo kiểu chữ Nhị, một nhà bia và bia được xây dựng sau ngày mất của Tào Quận công 3 năm (1655). Đền thờ nằm trên một khu đất bằng phẳng có diện tích 1.700m2, có 2 cột nanh hình trụ cao 4,5m, đến Tắc môn xây theo kiểu cuốn thư, phía sau Tắc môn là nhà bia được xây theo kiểu mái vòm chồng diêm, bốn góc có đao hình cung, mũi hất lên trên đắp nổi hình rồng đơn giản. Bia ghi lại sự tích và hành trạng của Thái Bảo tào Quận Công Ngô Phúc Vạn và các công thần họ Ngô có công lao đóng góp vào sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Bia được chạm khắc đẹp, trán bia có chạm hình lưỡng long chầu nguyệt hai bên có hoa văn trang trí đường nét bay bướm nhẹ nhàng.

Trước sân nhà bái đường có đặt hai bể nước bằng đá Thanh được đẽo gọt khá công phu hình tròn có chân, có đai bể, hình dáng đẹp thanh thoát. Hai bể nước này được chạm khắc cùng thời với bia Ngô Phúc vạn. Kề sát nhà Bái đường là nhà Thượng điện được trùng tu xây dựng lại vào thế kỷ 19. Trước cửa gian giữa trên hai cột chính có câu đối:

“Ngọn thuỷ đông xu văn phái viễn
Trà Tây sơn hộ tướng môn cao”.


Cách bài trí trong nội thất nhà Thượng điện giống nhau. Hương án được chạm trổ một cách tinh vi trên là hình rồng chầu nguyệt phía dưới là nhiều hình tượng được chạm l*ng in nổi hình long, ly, quy, phượng chầu nhau vào các hoa văn mai đào tùng cúc..Đường nét chạm khắc gãy gọn tinh xảo thể hiện trình độ điêu khắc cao của nghệ thuật dân gian.
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 03:43:57 PM
Đền cả Du Đồng

Đền cả Du Đồng (đền Hàng Tổng) thuộc địa phận thôn Vĩnh Thành, xã Đức Đồng, huyện Đức Thọ, trước đây thuộc thôn Vĩnh, tổng Du Đồng, phủ Đức Thọ. Từ cuối nhà Lê nhân dân đã dựng ngôi đền thờ ông Bùi Thúc Ngật đậu Hương Cống (Cử nhân) người có công khai phá, chiêu dân lập  nên xóm làng của tổng Du Đồng, truyền bá, mở mang nghề nông trang (nông nghiệp và dâu tằm), mở trường dạy học đầu tiên cho nhân dân cả vùng phía tây huyện Đức Thọ ngày nay.

Đền cả Du Đồng cũng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử, là vị trí tiền tiêu, tiếp nhận lương thực, tuyển mộ quân sĩ của nghĩa quân Phan Đình Phùng trong kháng chiến chống Pháp những năm 1887 - 1888. Là nơi vào năm 1903 - 1904 cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và Nguyễn Sinh Cung (sau này là Bác Hồ) đến dạy học và viếng cảnh, là nơi thành lập Tổng uỷ Du Đồng của Đảng cộng sản Đông Dương năm 1930, là nơi treo cờ đỏ sao vàng vào ngày21 /8/1945 trong cao trào tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Tuy nhiên đền Cả Du Đồng có giá trị cao hơn cả là một công trình kiến trúc nghệ thuật, tuy quy mô  không đồ sộ nhưng rất đẹp và uy nghiêm, với những mảng chạm khắc tinh xảo tuyệt vời, độc đáo và uyển chuyển.

Kết cấu đền Cả Du Đồng bao gồm cột nanh nhà Tam quan, hạ, trung và thượng điện bố cục theo kiểu chữ Tam ngoảnh mặt về hướng tâynam. Trước đền có một dãy ao hồ quanh năm đầy nước tạo nên thế cận thuỷ cho đền, sau đền có con sông nhỏ Hắc Giang lượn vòng uốn khúc ôm lấy thôn Vĩnh rồi đổ ra sông Ngàn Sâu. Trong số kiến trúc đền nhà Tam quan là đặc sắc hơn cả, gồm 1 gian 2 vì có hồi văn làm bằng gỗ lim và mít lợp ngói mũi hài, toàn bộ các đường xà kẻ khâu đấm rường và cửa vọng đều được chạm lộng rất tỉ mỉ và tinh xảo với các đề tài dân gian như cảnh trí sinh hoạt tứ quý, các chép vượt vũ Môn, rùa đội cuốn thư. Nhà Tam quan là bình phong để ngăn cách cổng, sân đền với khu vực thờ tự, song đây không chỉ là một công trình kiến trúc mà còn là một tác phẩm điêu khắc nghệ thuật nổi tiếng tại Hà Tĩnh. Vì thế nhân dân trong vùng có câu ca:

“Gác chuông Kẻ Thượng
Hương án Xa lang
Tam quan Tự Đồng”.


Đền cả Du Đồng là một công trình có sự thống nhất và hoàn thiện cao về  bố cục, kết cấu và kỹ thuật xây dựng, đặc biệt là các mảng chạm khắc gỗ tinh xảo ở nhà Tam quan, Trung điện và Thượng điện đã góp phần làm cho ngôi đền không những có giá trị về lịch sử mà còn có giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật, là một di sản văn hoá vô giá.
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 03:48:58 PM
Đền thờ Bùi Cầm Hổ

Đô đài Bùi Cầm Hổ quê ở xã Đậu Liêu huyện Thiên Lộc nay là xã Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh. Thời gian du học ở Thăng Long, nhân đứng ra làm minh chứng cho vụ án "Canh lươn" được công luận cho là người có tài, tuy chưa đi thi, song triều đình đặc cách trọng dụng. Ông đã từng giữ chức Ngự Sử, An vũ sứ Lạng Sơn, hai lần đi sứ Trung Quốc, thăng Tham tri chính sự, trải thờ 3 triều vua thời Lê sơ. Khi về nghỉ ở quê, ông cho ngăn khe dẫn nước từ núi xuống đồng ruộng của làng, đủ tưới hàng trăm mẫu ruộng xưa nay vốn bị hạn hán. Khi ông mất, được phong Bỉnh quân đại vương, Thượng đẳng phúc thần. Nhân dân địa phương lập đền thờ.

Phía tây dãy núi Ngàn Hống, một ngôi đền lấp ló dưới chân núi Bạch Ty, đó là đền Đô Đài Bùi Cầm Hổ, vừa mới được xây dựng lại. Đền cũ nguyên xưa khá đồ sộ, có thượng, trung và hạ điện hướng đông nam. Trước đền là con đường qua truông, dọc theo đường là ngọn khe Vẹt, khu đền được che kín bởi một rừng cây rậm rạp. Trong đền có đủ các loại đồ tế khí, nghi trượng. Trước cửa hai ông phỗng to gần bằng người lớn, tóc tết hai xoáy, chắp tay quỳ gối kính cẩn nghiêm trang.

Trong hai cuộc chiến tranh, cả rừng cây và ngôi đền đều bị bom đạn phá huỷ. Hoà bình lập lại, nhân dân sở tại tự nguyện đóng góp lập lại ngôi đền mới. Tại nền đất cũ, hố bom nham nhở chưa kịp san lấp. Đền phải chuyển sang xây cất ở một chỗ khác, cùng bên chân núi gần đó, nhưng có nền đất cao hơn. Ngôi đền mới chỉ thu gọn trong hai toà nhà: một điện thờ và một bái đường được sử dụng lại của ngôi đền cũ còn ít nhiều dấu tích văn hoá chạm trỗ thời xưa. Một số đồ tế tự như áo, mão cân đai phẩm phục, các đạo sắc phong được cất giữ hầu như nguyện vẹn.

Lễ hội Đô Đài "Tháng giêng Đô Đài, tháng hai Hương Tích" là một trong những lễ hội lớn từ xưa ở vùng Nghệ Tĩnh. Lễ hội còn có tên "Lễ Báo ân", tổ chức vào ngày 12 tháng giêng âm lịch, ngày giỗ ông. Lễ hội có những quy định về định kỳ và nghi thức khá độc đáo. Đại lễ hội 50 năm tổ chức một lần.
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 03:54:08 PM
Đền Chợ củi

Toạ lạc mái đông núi Ngũ Mã trên một ngọn đồi thấp cạnh bờ sông Lam, nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân. Đền Chợ Củi khởi dựng vào khoảng giữa thế kỷ XVIII thờ Liễu Hạnh công chúa.

(http://www.hatinh.gov.vn/Home/images/news/hatinh2007228145641.jpg)
Đền chợ Củi

Đền Chợ Củi có diện tích 1.040m2, từ bờ sông Lam đi vào lần lượt qua Tam quan, hồ bán nguyệt, sân ngoài sân trong, hạ điện trung điện thượng điện. Miếu cô Chín và bia đặt ở góc trái và phải phía trước sân ngoài .

Tam quan cùng với hệ thống miếu cô miếu cậu tạo thành đai khép kín tách khu ngoại thất và nội thất thành hai phần chính phụ rõ rệt. Cấu trúc các thành phần chính phụ thượng hạ tả hữu tiền hậu được bố cục theo một trục chính dọc theo tâm điểm cao dần về phía sau. Công trình vừa có tính liên hoàn vừa tách biệt, đây là kiểu kiến trúc khá phổ biến của đền chùa Việt Nam thời Hậu Lê.

Qua các tài liệu thành văn và khảo sát thực địa các nhà nghiên cứu khẳng định đền Chợ Củi là đền thờ Mẫu Liễu, tuy vậy có thể trong quá trình lịch sử các đền miếu khác trong vùng bị tàn phá một số pho tượng và tế khí được đưa về đây cùng với việc thờ công chúa Liễu Hạnh, nhân dân thờ luôn một số vị khác như Trần Hưng Đạo, Lê Khôi. Vì sự ngưỡng mộ của nhân dân đối với Mẫu Liễu và đặc sắc về cảnh quan kiến trúc nên đây là một trong những điểm hàng năm có lượng khách viếng thăm cao nhất trong tỉnh. Hội đền Chợ Củi được tổ chức hàng năm vào ngày 1 tháng 10 âm lịch.
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 03:58:56 PM
Đền thờ Lê Quảng Chí - Lê Quảng Ý

Đền ở làng Thần Đầu, nay là xã Kỳ Phương, huyện Kỳ Anh, sử sách thường chép là "Đền Thần Đầu", dân gian thì gọi "Đền hai quan Trạng", có 3 toà ở 3 chỗ khác nhau: "Lãm Sơn Tiên sinh từ" thờ Lê Quang Chí, "Bảng Quận công từ" thờ Lê Quảng Ý” và "Thần Đầu từ" thờ chung hai người.

Lê Quảng Chí và Lê Quảng Ý là hai anh em ruột quê làng Sơn Đầu sau đổi thành Thần Đầu, phủ Hà Hoa, nay là xã Kỳ Phương huyện Kỳ Anh. Hai ông con nhà nghèo lúc nhỏ phải đi ở cho nhà giàu ở một miền xa để kiếm sống. Chủ nhà thấy thông minh bèn nuôi cho hai người ăn học đến lúc thi đỗ mới về làng. Lê Quảng Chí (1451-1533) đỗ Nhất giáp Tiến sĩ đệ nhị danh Đình Nguyên khoa Mậu Tuất (1478) ông làm quan đến Tả Thị lang bộ Lễ kiêm đông các Đại học sĩ. Năm 60 tuổi, ông về quê trí sĩ, mở trường dạy học, ông mất năm 82 tuổi, mộ chôn dưới chân núi Hoành Sơn. Còn Lê Quảng Ý (1453-1526) đỗ đồng Tiến sĩ khoa Kỷ Vị đời Lê Hiến Tôn làm quan đến Hà Lâm viện thị chế, đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Hiến sứ kiêm đề lĩnh tư thành quân vụ, tước Bảng Quận công, ông mất năm 73 tuổi, mộ táng dưới chân núi Hoành Sơn.

Mộ và đền thờ của Lê Quang Chí và Lê Quảng Ý đều ở gần nhau. Xưa có câu đối ngợi ca hai ông:

"Nhất ngôn khoa giáp nam huynh đệ
Song miếu anh linh tự cổ kim"


(Khoa giáp một nhà, ai bác chú?
Anh linh hai miếu tự xưa nay).


Về sau xã Hoằng Lệ, tổng Hoằng Lệ lại lập thêm ngôi đền thờ chung hai ông ở gần mộ. Hiện nay ngôi đền do xã Hoằng Lệ dựng và ngôi đền Bảng Quận công do làng Thần Đầu dựng đều không còn. Đền Lãm Sơn tiên sinh đã hư hỏng nặng. Trong đền còn lại một rương nhỏ đựng một số màn trướng, thờ vải thêu, và 16 đạo sắc phong thần (Lê Quang Chí 13 đạo, Lê Quảng Ý 3 đạo), sớm nhất là vào niên hiệu Dương Hoà thứ 5 đời Lê Thần tôn (1639), muộn nhất vào niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924).
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 04:03:58 PM
Đền Chiêu Trưng

Đền Chiêu Trưng còn gọi là đền Võ Mục, thuộc xã Kim Đôi nay là xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà. Đền xây dựng trên núi Long Ngâm, ngọn núi cuối cùng của dãy Nam Giới, từ đất liền uốn lượn ra biển làm bức bình phong án ngữ phía đông cửa Sót. Ngọn Long Ngâm hình núi như trán con rồng chúi xuống biển sâu "Ai biết núi Nam Giới. Đá cũng hoá ra rồng" (thơ Bùi Dương Lịch).

(http://www.hatinh.gov.vn/Home/images/news/hatinh2007228144746.jpg)
Đền Chiêu Trưng

Lê Khôi, thuỵ là Võ Mục con ông Lê Trừ anh thứ hai của Lê Lợi, cha mẹ mất sớm ở với chú Lê Lợi, tham gia nghĩa quân Lam Sơn từ ngày đầu cho đến lúc giải phóng hoàn toàn đất nước, có tên trong Hội Thề Lũng Nhai và danh sách 35 công thần khởi nghĩa. Lê Khôi làm quan trải 3 triều (Lê Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông) lên tới chức: Khâm sai tiết chế thủy lục như dinh, Hộ vệ thượng tướng quân.

Năm 1443 ông được phái vào làm Tổng trấn Hoan Châu thời gian này ông chú trọng phát triển nông nghiệp đắp đập khai hoang lập làng. Năm 1446, phụng mệnh vua Nhân Tông, cầm quân đi đánh Chiêm Thành, trên đường trở về ông bị bệnh nặng, đoàn chiến thuyền đến Cửa Sót dưới chân núi Nam Giới thì ông mất. Triều đình làm quốc tang, thi hài ông an táng tại chóp núi Long Ngâm và cho lập đền thờ tại đó hàng năm quốc tế truy phong. Năm 1487, được vua Lê Thánh Tông tặng phong “ Chiêu Trưng đại vương”.

Đền Chiêu Trưng gồm 3 toà được xây dựng năm Đinh Mão (1477) một năm sau khi ông mất, đến nay sau nhiều lần trùng tu song vẫn giữ được dáng vẻ ban đầu. Từ chân núi leo lên các bậc đá hai bên cây cối cổ thụ um tùm sừng sững hai cột nanh của đền. Qua cổng và vọng lâu vào đền Hạ là nơi đón tiếp quan khách về tế lễ, đền Hạ thoáng rỗng, đền Trung có treo bức hoành đề bốn chữ “Vạn khoảnh ân ba” (sóng ân muôn dặm). Một số nhà nghiên cứu cho rằng các đường nét khắc chạm ở trung điện đền Chiêu Trưng in đậm phong cách nghệ thuật điêu khắc đầu thế kỷ XVII đến nay vẫn còn bảo tồn được.

Hai bên trung điện là hai cửa nách thấp hẹp phải cúi đầu mới được đi lên Thượng điện, giữa Thượng điện trên hương án sơn son thiếp vàng là bức tượng Chiêu Trưng Lê Khôi bằng gỗ sơn son, nét chạm đẹp trang nghiêm phúc hậu.

Hàng năm vào ngày 1, 2 3 tháng 5 âm lịch là ngày giỗ và hội đền Chiêu Trưng, trước ngày chính giỗ thường có trận mưa rào chiều hoặc tối mồng 1. Nhân dân trong vùng nói rằng đó là trận mưa “ tắm tượng” “ rửa đền” đón khách thập phương về tế lễ. Sau tế lễ có rước kiệu đua thuyền trên sông từ Mai Phụ đến Cửa Sót.
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 04:09:07 PM
Đền thờ Đặng Tất - Đặng Dung

Từ ngã ba Nghèn theo trục đường liên huyện đi về hướng đông khoảng 5km, đến địa phận xã Tùng Lộc, huyện Can Lộc có một ngôi đền cổ kính nằm dưới chân núi Hồng Lĩnh. Đó là Đền thờ Đặng Tất, Đặng Dung, còn gọi là Đền hai Đại Vương.

Đặng Tất, Đặng Dung là hai cha con, hai danh tướng của nghĩa quân kháng chiến dưới thời nhà Trần (khởi nghĩa Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng) trong buổi đầu chống quân Minh xâm lược. Năm 1428, sau khi toàn thắng quân Minh, Lê Lợi đã phong cho những người có công với nước, trong đó Đặng Tất, Đặng Dung được phong bốn chữ "Tiết nghĩa công thần". Các triều đại kế tiếp đều có sắc phong liệt hai ông vào hàng trung nghĩa, về sau nhân dân lập đền thờ ở chính làng quê của hai cha con ông.

Đền được xây dựng trên khu đất rộng 3320m2, bao quanh đền có hàng cây xanh tốt, đây là vùng dân cư khá đông đúc và sầm uất. Phía trước đền là con sông Yến, chảy từ Hồng Lĩnh ra sông Nghèn rồi đổ ra biển. Nhìn vào tổng thể di tích được kiến trúc theo kiểu chữ Nhị (=),bao gồm Bái đường và Thượng điện. Nối liền Bái đường với Thượng điện là một hệ thống tường vây được xây bằng gạch vôi vữa (theo lời kể lại của nhân dân, kiến trúc ngày trước gồm có cả ba toà hạ, trung và thượng điện). Kiến trúc thượng điện hiện nay mang dáng dấp cuối Lê đầu Nguyễn.

Phía trước cổng ra vào có bức đại tự “Võ bị gia - Trung thần hiếu tử Văn Khoa phái”. Hai bên là 2 cột nanh đồ sộ, trên đỉnh có đắp nổi hai con nghê chầu bằng mảnh vỡ thủy tinh ghép lại. Năm 1968, trong thời kỳ chống Mỹ đã ném bom phá huỷ 2 cột nanh, đánh sập hạ và thượng điện. Năm 1970, nhân dân đã tu sửa, làm thêm bái đường, chuyển trung điện lên vị trí thượng điện.

Hàng năm cứ đến ngày 5 tháng 3 âm lịch con cháu dòng họ và nhân dân địa phương làm lễ tế tại đền ghi nhớ công lao đóng góp của hai cha con Đặng Tất, Đặng Dung cho đất nước quê hương đầu thế kỷ XV.
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 04:13:59 PM
Đền thờ Nguyễn Biểu

Đền thờ Nghĩa vương Nguyễn Biểu ở làng Nội Diên, xã Yên Hồ, huyện La Sơn, mà sách xưa thường chép là "Miếu cổ Bình Hồ". Bình Hồ đời Lê, thời Trần là Bà Hồ, huyện Chi La, từ đời Tây Sơn đổi là Yên Hồ gồm 2 thôn Nội Diên và Yên Phúc, nay là xã Yên hồ, huyện Đức Thọ, Tĩnh Hà Tĩnh.

Về thân thế Nguyễn Biểu (?-1413), sử sách chép rất sơ sài: ông quê xã Bà Hồ, huyện Chi La, đỗ Thái học sinh vào cuối thế kỷ XIV, làm quan đến chức Điện tiền thị ngự sử dưới thời nhà Hậu Trần. Khi giặc Minh sang xâm lược, phò giúp Trần Quý Khoáng tổ chức lực lượng khởi nghĩa nhà Hậu Trần, năm 1413 quân Minh vào uy hiếp Nghệ An vua Trần đã sai Đài quan Nguyễn Biểu làm sứ cầu phong, bị Trương Phụ giữ lại. Để thử lòng ông, Trương Phụ dọn “ Cổ đầu người’’, ông ung dung móc mắt ăn và tức cảnh làm bài thơ “Ăn cổ đầu người” nổi tiếng, thấy thế Trương phụ tha cho đi, song Phan Liêu đã can ngăn Phụ và bắt ông trở lại, trước khí phách của ông chúng đã giết ông bằng việc buộc vào chân cầu bên bờ sông Lam để thuỷ triều dâng lên dìm chết, đó là ngày 1/7 năm Quý Tỵ (1413).

Vua Lê Thái Tổ sau khi chiến thắng quân xâm lược Minh, đã cho lập đền thờ ông ở Nội Diên, phong là Nghĩa Liệt Hiển ứng Uy Linh Trợ Thuận đại vương, tức Nghĩa sỹ Đại Vương, đến đời vua Lê Thánh Tông sai lập miếu thờ Nghĩa sĩ ở Bình Hồ. Đến cuối thế kỷ 18 đền bị cháy, sau cơn binh lửa vua Gia Long lại có sắc phong, năm Kỷ Tị (1869) nhân dân trùng tu lại đền, các quan viên địa phương và những người hảo tâm quyên góp dựng thêm ngôi Trung điện và ngôi Thượng điện cũng được sửa sang thêm. Cả hai toà đều được lợp ngói âm dương, cổng đền xây hai cột trụ biểu cao, phía trong có hai tấm bia đá. Trong  toà đền, ngoài kiệu hương án và nhiều đồ tự khí còn có các biển gỗ khắc thơ “ngự chế” nhiều đối liễn của dân địa phương, quan chức và nhà khoa bảng.
Tiêu đề: Re: Di tích lịch sử - văn hóa - Hà Tĩnh
Gửi bởi: Manga4vn vào Tháng Tám 12, 2008, 04:19:15 PM
Đền Trạng Sử (song Trạng nguyên Từ)

Đền Trạng Sử dựng bên mái tây rú Ngọc ở ấp Ngọc Sơn, xã Bình Lãng Thượng, huyện Phỉ Lộc, nay là xã Đức Thuận, thị xã Hồng Lĩnh, thờ cha con Trạng nguyên Sử Hy Nhan - Sử Đức Huy.

Sử Huy Nhan (? - 1421) nguyên họ Trần, quê ấp Ngọc Sơn, đỗ Trạng nguyên khoa Quý Mão (1363) đời Trần Dụ Tôn, làm quan đến chức Hành khiển tri kinh diên, coi việc giảng sách cho nhà vua. Con ông là Sử Đức Huy (1360 - 1430) cũng đỗ Trạng nguyên khoa Tân Dậu (1381) đời Trần Phế Đế, nhưng không làm quan.

Dưới triều Hồ, Sử Hy Nhan và Sử Đức Huy ở tại quê nhà, nhà Hồ mất quân Minh sang xâm lược nước ta cho quân đi tìm người tài đức để đưa về Kim Lăng, chính Thượng thư Hoàng Phúc đích thân đi chiêu dụ cha con Sử Hy Nhan. Hai ông lấy cớ bệnh tật và từ chối rồi cùng một số gia nhân trốn lên núi Mồng Gà ẩn náu, hai ông đã tổ chức khai hoang lập nên xóm Trại Đầu. Về sau số người nghèo đói các nơi đến càng đông tổ chức khai khẩn biến vùng đất hoang vu này thành xóm làng đông vui ngày nay là các xã Ân Phú (Đức Thọ), Sơn Long, Sơn Trà ( Hương Sơn). Công lao to lớn và những cống hiến của ông cho quê hương đất nước và con trai ông là Sử Đức Huy được lịch sử ghi nhận, nhân dân ở làng Ngọc Sơn và các vùng đất nơi ông góp công khai phá đã lập đền thờ để tỏ lòng ghi nhớ. Sử Hy Nhan mất năm Tân Sữu (1421) lăng ông đặt trên nền trại cũ, dân Trại Đầu dựng đền thờ ông gần lăng để tỏ lòng nhớ ơn, trong đền có bài vị đề: “ Trần triều khôi nguyên, Nhập nội Hành khiển Tri kinh diên, Tứ kim ngư đại, Sử tướng công, tự Hy Nhan thần vị”. Đến năm 1945 đền và lăng vẫn còn, nhưng hiện nay không còn ngôi đền nữa một số đạo sắc phong thần được lưu ở Chùa Am nơi các đền chùa hợp tự năm 1946.

Đền thờ Song Trạng nguyên do con trai Sử Đức Huy là Sử Bá Khoan cùng họ hàng và nhân dân làng Ngọc Sơn dựng nên. Tấm biển trước cửa đền khắc 4 chữ lớn “ Song Trạng nguyên từ” hai bên có hai câu đối sơn son thiếp vàng:

“Ngọc Lĩnh thiên trùng tiêu giáp đệ
Minh Hà nhất phái diễn gia khương”


(Khoa giáp cao nghìn tầm núi Ngọc
Gia Khương dài một dải sông Minh)


Trên bàn thờ cạnh bài vị Trạng cha là bài vị Trạng con Sử Đức Huy đề: “Trần triều khôi nguyên, Lê sơ hướng phụng Bắc sứ bộ Hộ thượng thư Sử tướng công Tự Huy giền thần vị”. Trên bàn thờ còn có chiếc túi thêu cá vàng (Kim ngư đại) do vua Trần ban cho Sử Hy Nhan và trên tường lại có dòng chữ đề "Long phi Đinh Tỵ quý đông" tức là năm Xương phù nguyên niên (1377), đúng là năm ông kết thúc bộ "Đại Việt sử lược" chắc cũng là năm ông được ban tặng "Kim Ngư đại".

Ngôi đền thờ hai ông Trạng Sử đã được trung tu nhiều lần, và sau cách mạng, bị bỏ hoang phế hàng mấy chục năm liền nên đã xuống cấp, nay đã được trùng tu tôn tạo.

Mobile View
SimplePortal