Hội du lịch Việt Nam
Du lịch ba miền (Không quảng cáo tour ở đây) => Miền Bắc => Tác giả chủ đề:: Manga4vn vào Tháng Tám 10, 2008, 10:40:18 AM
-
Tất cả các bài viết trong tipic này đều thuôc bản quyền của Ủy ban nhân dân Tỉnh Hải Dương (http://www.haiduong.gov.vn)
Lễ hội Đền Quát : Niềm tự hào trên quê hương danh tướng Yết Kiêu
(http://www.haiduong.gov.vn/upload-images/article11386.jpg)
Đua thuyền truyền thống trên sông Quát ở thị tứ Yết Kiêu ( Gia Lộc). Ảnh : Thành Chung
Mùa thu này, làng quê Hạ Bì thuộc xã Yết Kiêu (Gia Lộc) tràn ngập không khí náo nức, tươi vui trong thời gian diễn ra lễ hội Đền Quát. Năm nay, Lễ hội Đền Quát có nhiều nét mới so với những năm trước.
Nhiều nội dung phần lễ và phần hội sẽ được khôi phục. Theo đó, lễ hội sẽ bao gồm: Lễ cáo yết (nghi lễ mở cửa đền); Lễ mộc dục (thể hiện tấm lòng hiếu nghĩa của nhân dân bản xã với Đức thánh); Lễ rước bộ; Lễ tưởng niệm danh tướng Yết Kiêu; Tổ chức thi cỗ dâng Thánh (có 7 mâm cỗ hộp do các nghệ nhân làng Hạ Bì thực hiện); Hội Bơi chải (trên đoạn sông trước cửa đền với sự tham gia của 10 đội thuyền đến từ các Hà); thi bơi lội (bơi người) cùng nhiều trò chơi dân gian trong suốt các ngày diễn ra lễ hội
Đền Quát được xây dựng vào cuối thời Trần nhằm ghi nhớ công lao của đô soái Yết Kiêu. Danh tướng Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế (1242-1301), quê quán ấp Hạ Bì, huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng (thuộc xã Yết Kiêu - Gia Lộc ngày nay). Ông là người có công giúp Nhà Trần chống giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII với biệt tài thuỷ chiến. Có nhiều truyền thuyết trong dân gian về cuộc đời và những chiến tích của ông. Theo đó, Yết Kiêu sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mất sớm. Từ nhỏ, ông đã phải lăn lộn trên sông nước để kiếm sống và nuôi mẹ. Năm 15 tuổi, trong một lần đi gánh nước, ông thấy hai con trâu trắng húc nhau ở bến sông Quát. Vốn có sức khoẻ, ông dùng đòn gánh đánh trâu. Chúng sợ bỏ chạy, ông nhặt được hai cái lông trâu, đặt xuống nước, nước rẽ làm đôi. Ông cho đây là lông trâu thần, liền nuốt vào bụng. từ đó ông có thân thể cường tráng, trí lực phi thường, bơi lội dưới nước như đi trên bờ. Trong trận chiến chống giặc Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng, Yết Kiêu nổi tiếng với chiến công dùng mũi khoan đánh chìm một đoàn thuyền chiến của giặc, bắt sống tướng giặc Phạm Nhan. Yết Kiêu đem một toán nghĩa quân, đến mai phục trong bụi lau sậy, ven bờ sông nơi đoàn thuyền giặc nguyên đậu rồi một mình ông dùng chiếc mũi khoan nhọn bằng sắt, bơi lặn khoan các đáy thuyền của chúng. Cứ khoan xong một lỗ, ông lại lấy giẻ đút nút dùng dây một đầu buộc vào nút giẻ đầu kia dòng lên bờ. Chờ cho giặc ngủ say, Yết Kiêu giật các đầu dây, nước ùa vào thuyền từng chiếc, từng chiếc thuyền bị đắm bọn giặc tỉnh dậy nhốn nhào. Yết Kiêu cho hiệu nổi quân reo còn ông nhảy lên thuyền túm cổ tên Phạm Nhan lôi tụt xuống sông, kéo hắn vào bờ. Bọn giặc trên thuyền hổn hoảng tưởng nghĩa quân đột nhập chúng túm đánh lẫn nhau, kết tục, cả đoàn thuyền của giặc đều bị chìm. Trận đánh kết thúc, nghĩa quân toàn thắng, Phạm Nhan bị chém đầu tại bãi bơi Kiếp Bạc. Vua Trần thăng cho Yết Kiêu chức “Đệ nhất bộ đô soái thủy quân”. Khi ban thưởng quyền hạn kinh tế, Vua hỏi: “Tướng Yết Kiêu muốn bổng lộc gì ?” ông thưa: "Điều thứ nhất thần xin là bệ hạ ban phúc cho dân ấp Hạ Bì được tự do hành nghề chài lượng từ đầu sông ở thượng nguồn tới cửa sông giáp biển. Thứ hai, Bệ hạ ban ơn cho mỗi hộ khi hành nghề ở đâu cũng được sử dụng 3 thước đất phơi chài nước đồ nghề và kéo sợi quay tơ, chức dịch địa phương bất đắc ngáng chở, ngoài ra thần không xin gì thêm”. Vua Trần khen Yết Kiêu là người nhân nghĩa và y ban. Từ đó, dân làng Hạ Bì làm nghề chài lưới cứ theo các triền sông trải dải ra sinh sống. Theo di ngôn thì trước kia có 9 Hà là: Lạc Thượng, Lạc Trung, Lạc Hạ, Tán Võng, Kênh Tre, Kênh Hà, Kênh Trẽ, Kênh Be và Kênh Trung. Hiện nay dân các Hà còn sinh cơ lập nghiệp ở khắp nơi tạo ra thành nhiều Hà phụ, thuộc một số xã theo các sông, lạch.
Đền Quát toạ lạc ở đầu làng, nằm trên gò đất cao trải bằng phẳng và rộng rãi, đồng thời cũng là nơi chôn rau cắt rốn của danh tướng. Xung quanh đều có hồ, bao bọc ba mặt. Trước cửa đền là con sông Đĩnh Đào, dòng sông chảy tới đây uốn khúc tạo thành hình cánh cung, ôm gọn khu ruộng triều phì nhiêu nối liền với cánh đồng rộng mênh mông của xã. Sở dĩ gọi là đền Quát vì do nhân dân trong làng và các bà cung tiến làm nên. Trước kia, hàng năm cứ đến kỳ hội đền từ ngày mồng 10 tháng giêng đến ngày 20 tháng giêng âm lịch dân các Hà bằng mọi phương tiện nhưng chủ yếu bằng thuyền, tấp lập về đông đủ dự hội. Chính vì thế mới có tên là Đền Quát ("Quát" có nghĩa là bao quát rộng rãi). Đền xây dựng chủ yếu bằng gạch cậy, lợp ngói mũi, cột, xà, hoành, dui... Đền có rất nhiều câu đầu, câu đối, đại tự, cửa võng, cuốn thư, đồ thờ, tượng cũng như những hình vẽ, nề đắp, chạm trổ. Trên các cổng chè, cột tháp và thân các muông chim, cầm thú, những hoa văn khắc trạm ở khắp nơi trên hình mẫu mọi vật, đặt chúng thành từng nhóm, kết hợp giữa cảnh vật với con người và thiên nhiên mọi cách đa dạng hài hoà hấp dẫn. Trải qua hơn 600 năm, qua các thời đại vương triều, đền Quát đã được nhân dân nhiều lần tu sửa tôn tạo ngày một phong phú. Đến thời Nguyễn Thiện Trị: 1841-1847 đều được tu bổ lớn. Và tiếp theo qua các thời, đền được trùng tu bổ vào các năm Tự Đức 1848-1883, Đồng Khánh 1884-1885, Khải Định 1916-1925. Qua tìm hiểu nghiên cứu 4 đạo sắc phong còn lại như sau: Sắc thời Cảnh Hưng năm thứ tư ngày 16-5-1783; thời Cảnh Thịnh thứ tư ngày 25-5-1795; thời Tự Đức thứ sáu ngày 10-11-1853; thời Khải Định thứ chín ngày 25-7-1924. Đáng tiếc là hình ảnh uy nghi, lộng lẫy của toàn bộ ngôi đền và cảnh quan xung quanh nội tự cùng phần lớn các sắc phong đến nay không còn nữa. Hàng chục sắc phong quan trọng của những thế kỷ trước đều bị thực dân Pháp cướp đi hoặc đốt phá trong trận càn ngày 14-6-1948. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cấp ủy, chính quyền và nhân dân trong xã tập trung vào hai nhiệm vụ cơ bản là sản xuất- chiến đấu nên không có điều kiện tu sửa. Vì vậy ngôi đền ngày càng xuống cấp. Giữa năm 1973, một cơn giông lớn đã làm sập nốt 3 gian cung. Phải đến ngày 10-10-1976, cuộc họp liên tịch giữa cấp uỷ, chính quyền xã Yết Kiêu với phòng Văn hoá huyện Gia Lộc và Ty Văn hoá tỉnh Hải Dương quyết định: Hàng năm mở hội đền truyền thống tại đền Yết Kiêu thời gian 3 ngày từ 18-20 tháng 8 âm lịch (cùng thời gian với đền Kiếp Bạc); Đền Quát cứ 5 năm sẽ mở hội lớn một lần vào các năm thứ 5 và thứ 10 của thập kỷ; đảm bảo di tích văn hoá của đền theo thời kỳ ban đầu xây dựng; tiến hành trồng cây cổ thụ, cây lấy gỗ, cây ăn quả, tiến hành thả cá ở khu hồ lớn, tăng thu nhập, góp phần kinh tế tu bổ cho đền ngày thêm khang trang phong phú. Tháng 8 năm 1976, nhân dân thôn Quát đã khôi phục lại hậu cung. Thời kỳ này do các công trình thuỷ lợi được xây dựng, dòng sông Quát đã bị ngăn đập không còn dòng chảy như xưa nên lưu lượng nước cạn hơn, nếu tổ chức bơi chải vào dịp lễ hội truyền thống 15 tháng Giêng thì rất khó khăn vì nước cạn nên Ty Văn hoá Hải Dương lúc đó đã nhất trí cho UBND xã cho cơ sở tổ chức lễ hội vào dịp từ 14-15 tháng tháng âm lịch hàng năm. Khu di tích đền Quát đã được xếp hạng Quốc gia ngày 28 tháng 1 năm 1998.
Được sự quan tâm, đầu tư của tỉnh, huyện và địa phương, khi di tích dần được củng cố, tôn tạo. Năm 2006, Nhà nước hỗ trợ giải toả 24 hộ dân đang sinh sống xung quanh khuôn viên Đền Quát, trả lại hiện trạng vốn có của Đền. Tiếp đó, UBND tỉnh đầu tư xây dựng kè lạch xanh, lạch đỏ và bờ sông Đĩnh Đào đoạn thuộc khuôn viên của đền. Chính quyền và nhân dân địa phương đầu tư cho đội bơi chải và đội vận động viên bơi lội tập luyện hàng năm với số kinh phí trung bình khoảng 40 triệu đồng/năm. Đồng chí Nguyễn Hữu Lếnh, chủ tịch UBND xã cho biết: Là vùng quê nghèo, thuần nông, điều kiện kinh tế- xã hội còn khó khăn nhưng cấp uỷ, chính quyền địa phương luôn đặc biệt coi trọng công tác bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, trong đó tiêu biểu là Đền Quát. Việc duy trì, tổ chức tốt lễ hội hàng năm đã góp phần tạo không khí tươi vui, phấn khởi trong toàn xã, người dân thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, hăng hái lao động sản xuất, xây dựng quê hương.
-
Khu di tích Kiếp Bạc
(http://www.haiduong.gov.vn/upload-images/article1398.jpg)
Thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, cách Côn Sơn 7 km, là nơi có Đền thờ Trần Hưng Đạo được xây dựng tại nơi trước đây là đại bản doanh của Tướng quân trần Hưng Đạo, từ nơi đây 3 lần xuất quân và đại thắng quân Nguyên Mông. Khu di tích Kiếp Bạc là một quần thể gồm nhiều di tích như: Đền thờ Trần Hưng Đạo, Dược Sơn, dòng sông lục đầu, Bến Bình Than, Cồn Kiếm.
Kiếp Bạc là một vùng bán sơn địa, giữ vị trí quân sự tầm chiến lược, ở tả ngạn sông Thương, một nhánh của sông Lục Đầu, thuộc đất hai làng Vạn Yên (Kiếp ),Dược Sơn (Bạc) xã Hưng Đạo. Trần Hưng đạo từng tập kết đại quân ở đây. Quân Nguyên trong cuộc xâm lược lần thứ hai và thứ ba chiếm vị trí này làm bàn đạp tấn công Thăng Long. Tháng 6 năm 1285, diễn ra trận Vạn Kiếp, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai. Đại vương Trần Hưng Đạo, lập vương phủ và quân doanh ở Kiếp Bạc từ sau cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất và sống ở đây cho đến khi qua đời (1300).
Kiếp Bạc còn nhiều di tích quan hệ đến Trần Hưng Đạo như phủ đệ, đền thờ, lò gốm, Dược sơn và nhiều cổ vật khác. Trong đền có 5 pho tượng đồng :Trần Hưng Đạo và phu nhân, Phạm Ngũ Lão và hai con gái.
Khu di tích là một trung tâm tín ngưỡng và du lịch lớn của đất nước .Hàng năm có một mùa lễ hội vào trung tuần tháng Tám âm lịch, thu hút hàng chục vạn người, trọng hội vào ngày 18.
Di tích được xếp hạng đợt một (1962) và được xếp hạng đặc biệt quan trọng năm 1994.
-
Chùa Côn Sơn
(http://www.haiduong.gov.vn/upload-images/article1392.jpg)
Di tích được xếp hạng quốc gia đợt I (1962) và xếp hạng đặc biệt quan trọng vào năm 1994. Năm Hưng Long 12(1304) Pháp Loa xây dựng liêu (chùa nhỏ) Kỳ Lân đến năm Khai Hựu thứ nhất (1329) xây dựng mở rộng thành Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự , gọi tắt là chùa Côn Sơn, nôm gọi là chùa Hun, giao cho Huyền Quang chủ trì, tạo thành một trung tâm của thiền phái Trúc Lâm Việt Nam.
Vào thời Long Khánh (1373-1377), Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại. Nguyễn Trãi, xây dựng Thanh Hư động để làm nơi lui nghỉ. Côn Sơn là nơi in dấu chân danh nhân nhiều thời đại, tiêu biểu là Nguyễn Trãi, Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới, từ thủa thiếu niên và những năm tháng cuối đời đã sống ở đây; Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm khu di tích vào ngày 15/2/1965.
Côn sơn hiện còn nhiều di tích kiến trúc, điêu khắc và bia ký ở thế kỷ XIV-XVII như: Bia Thanh Hư động, Thạch Bàn, Tháp Huyền Quang...và nhiều cổ vật có giá trị.
Khu di tích Côn Sơn là một trung tâm văn hoá, tôn giáo và du lịch của đất nước, đang được trùng tu và tôn tạo. Hằng năm có hai mùa lễ hội lớn từ 16-22 tháng giêng, và từ 16- 20 tháng Tám, trọng hội là ngày 18.
-
Đền , Đình Sượt
Đền Sượt còn có tên là Quang Liệt miếu, Thanh Cương từ , tại thôn Thanh Cương (nôm là làng Sượt) thờ ông Vũ Công Hựu ,đỗ tạo sĩ thời Lê Thánh Tông, ông có nhiều cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc vàog thế kỷ thứ XV
Đền xây dựng vào thế kỷ thứ XVII, trùng tu năm 1881 và 1924, kiểu chữ công, hậu cung chồng diêm, 8 mái, quy mô trung bình, điêu khắc tinh tế. Hai giải vũ cột bằng đá. Cổ vật và đồ tế tự xưa rất phong phú nay chỉ còn lại phần nhỏ .
Lễ hội hằng năm 10-3 có trò vui đánh bệt (đánh hổ) rất độc đáo .
Di tích được công nhận năm 1993
Đình -Đền- Chùa Bảo Sài
Tại thôn Bảo Sài, xã Bình Hàn. Đình thờ tướng Trương Mỹ, người bản bản xã, có công đánh giặc giữ nước thời Hai Bà Trưng. Đình có từ thời hậuLê ,trùng tu năm 1745 và năm 1912, kiểu chữ đinh, quy mô trung bình .
Đền Bảo Sài còn có tên là Thanh Hư động, thờ Tiên Dung công chúa , con giái vua Hùng thứ 18 ,lấy Chử Đồng Tử .Hiện tại Bảo Sài có tới 40 gia đình dòng dõi họ Chử . Bên cạnh đền là chùa Bảo Sài. Hai công trình đều xây dựng vào thời, Nguyễn hình chữ đinh . Đình đền còn nhiều đồ tế tự và cổ vật có giá trị, trong đó có 12 đạo sắc.
Lễ hội hàng năm vào ngày 10-3
Di tích được xếp hạng năm 1992.
-
Đền An Phụ và Tượng đài Trần Hưng đạo( thuộc xã An Sinh, huyện Kinh Môn)
(http://www.haiduong.gov.vn/upload-images/article1412.jpg)
Tại đỉnh núi An Phụ, ở độ cao 240 m. ở đây còn có chùa Tường Vân (Chùa Cao) và Trụ Kình Thiên. Đền Thờ An Sinh Vương Trân Liễu, thân Phụ Trần Hưng Đạo, cảnh quan đẹp, có giếng, đảm bảo nước cho nhà đền quanh năm. Đây là còn là căn cứ khởi nghĩa của Trần Tề, Ngô Bệ thế kỷ 14
Đền được xây dựng từ sau khi Trần Liễu qua đời (1251), qua nhiều lần trùng tu, công trình hiện còn xây dựng vào thời Nguyễn và Năm 1993. Cách di tích 300m về phía đông, có tượng đài Trần Hưng Đạo, bằng đá khối, cao 12m; phù điêu bằng đất nung hoành tráng, dài 45m, mô tả quá trình cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, hoàn thành năm 1997. Chùa Tường Vân trùng tu đầu TK XVII và cuối thế kỷ XX.Trụ Kình Thiên không còn.
Lễ hội hàng năm từ 26-3 đến 1-4(ngày mất của An Sinh vương ). Di tích là một điểm tham quan, du lịch, hàng ngày đều có khách đến thăm.
Di tích được xếp hạng năm 1992
-
Đền Quốc Phụ
còn có tên là Thượng Tể cổ trạch (Nhà cũ của quan Thượng tể), tại Tường thôn, xã Kiệt Đặc, tổng Kiệt Đặc, nay thuộc thôn Nẻo, Xã Chí Minh; thờ Nhập nội phụ quốc Thượng tể Trần Quốc Chẩn, một nhân vật nổi tiếng thời Trần Minh Tông
Đền được xây dựng sau khi Thái tể qua đời(1328), đã qua nhiều lần tu sửa, sau kháng chiến chống Mỹ, đền chỉ còn một gian nhỏ, năm 1997 được trùng tu; kiểu chữ nhị, hướng nam, 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung. Còn 9 đạo sắc được phong vào cuối Lê Trung hưng và triều Nguyễn. Cuối triều Lê Trung hưng, di tích được xếp vào hàng Chí Linh Bát cổ.
Hàng năm có hai kỳ hội , hội chính từ 5-8 tháng ba, Lễ đại kỳ phước; 12 tháng sáu, ngày giỗ của Thái tể.
Di tích được xếp hạng Quốc gia năm 2003.
Đền Sinh - Đền Hoá
Đền Sinh còn có tên là đền Thánh Phi Bồng ở vùng núi thôn An Mô, xã Lê Lợi, cách đền Sinh chừng 700m về phía Bắc là đền Hoá. Đền thờ Chu Hạo, tự Phúc Uy, hiệu là Phi Bồng tướng quân, có công phù Lý Nam Đế đánh giặc Lương ở thế kỷ VI
Sự tích được ghi trong Lĩnh Nam chích quái .Đền Sinh thờ nơi sinh, đền hoá thờ nơi hoá của tướng Phi Bồng, xưa nay là một trung tâm tín ngưỡng hấp dẫn du khách .
Đền khởi dựng ở thế kỷ XI, trùng tu đầu thế kỷ XX, theo kiểu chữ tam, Đền Hoá kiến trúc tương tự, trùng tu năm Tự Đức 32(1879), quy mô nhỏ. Khu
di tích có cảnh quan đẹp, hội nhập với Côn Sơn thành quần thể di tích và danh thắng lớn của đất nước.
Lễ hội hằng năm vào ngày 5 tháng 5.
Di tích được xếp hạng năm 1994
-
Đền Gốm
Tên tự là Trần Huệ Vương từ , ở tả ngạn sông Kinh Thầy, thuộc đất làng Linh Giàng, nôm gọi là làng Gốm, xã Cổ Thành. Đền thờ Phiêu kỵ thượng tướng quân Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và ba.
Đền được xây dựng từ thời Trần, đã qua nhiều lần trùng tu; thời kháng chiến chống Pháp, giặc phá hoàn toàn, nay đã khôi phục và tôn tạo. Đền hướng nam, nhìn ra vụng Trần Xá, nơi họp hội nghị Vương hầu bách quan, bàn kế sách chống Nguyên Mông, tháng 11.1282(1). Tại Hội nghị này, Trần Quốc Toản không được dự bàn nên tức giận bóp nát quả cam lúc nào không biết. Đền có tên là Gốm bởi vì làng Linh Giàng có nghề làm đồ gốm rất sầm uất vào thời Trần và Lê- Mạc. Nghề này đã thất truyền nhưng di tích còn lại khá lớn.
Đền có một mùa lễ hội vào trung tuần tháng Tám (13-21/8), trọng hội là ngày 15/8, ngày mất của Trần Khánh Dư. Hội đền Gốm trùng với hội Kiếp Bạc nên bến sông tấp nập, khách đến đông vui .
Di tích đền và lò gốm được xếp hạng năm 1984
Đình -Đền- Chùa Đồng Bào
Tại thôn Đồng Bào xã Gia Xuyên .Đền Đồng Bào tên tự là Vương Mẫu Linh Từ , thờ Hoàng Thái Hậu ỷ Lan (1044-1117). Theo thần tích, bà từng đến đây chu cấp vàng bạc cho dân trang Đồng Bào.
Sau khi bà qua đời, dân thôn lập đền thờ. Đền hiện còn kíiến trúc thời Nguyễn, kiểu tiền nhất hậu đinh. Phía tây đền là đình Hạ , có 5 gian kiến trúc Hậu Lê . Phía sau đình là chùa , tương truyền có từ thời Lý công trình hiện còn xây dựng vào thời Nguyễn khá đồng bộ. Khu di tích còn tượng ỷ Lan , nhiều tượng Phật , sắc phong câu đối , đại tự , 2 chuông , 1 khánh đồng , 5 bia ký và nhiều đồ tế tự có giá trị. Đây cũng là một di tích còn nhiều cổ thụ
Hằng năm có hai mùa lễ hội. Hội xuân từ 17-19 tháng 2; hội thu từ 23- 25 tháng 7.
Di tích được xếp hạng năm 1991
-
Đền Đươi
tên tự là Quỳnh Hoa từ , trên cánh đồng phía tây làng Cẩm Cầu , Bảo Đới nôm gợi là Đươi , thờ Hoàng Thái hậu ỷ Lan (1044-1117). Đền xây dựng từ thời Lý , sau khi Hoàng thái hậu qua đời . Di tích văn hoá kiến trúc hiện còn mang dấu ấn thế kỷ XVII , hình chữ quốc khá đồng bộ .Cùng với đền là chùa Bảo Đới . Qua khai quật khảo sát đã xác định được kiến trúc thời Lý và nhiều di vật có giá trị .
Lễ hội chính của đền vào ngày 25 tháng 7, kỷ niệm ngày mất của ỷ Lan Đền được xếp hạng năm 1992
Đình Bồ Dương
hay Đình Đông tại thôn Bồ Dương xã Hồng Phong (Ninh Thọ ). Năm 1947, hội nghị bàn kế sách giữ nước của Liên Khu III, gọi là Hội Nghị Diên Hồng họp tại đình
Đình Bồ Dương có từ thời hậu Lê, năm Chính Hoà Kỷ Tỵ (1889) được trùng tu, kiểu chữ đinh, quy mô lớn, tứ trụ có đường kính tới 60cm . Năm 1942,1993 được trùng tu nhưng vẫn giữ quy mô kiến trúc thời Lê. Hiện còn nhiều mảng điêu khắc độc đáo, có nội dung gắn với truyền thống múa rối nước. Đây là công trình kiến trúc tiêu biểu ở thế kỷ XVII. Bên cạnh đình Đông, còn đình Tây, xây dựng cùng thời với đình Đông, quy mô nhỏ hơn một chút, bị giải hạ năm 1981.
Hằng năm mở hội vào trung tuần tháng 3.
Di tích được xếp hạng năm 1995.
-
Đình Cúc Bồ
Tại thôn Cúc Bồ nôm gọi là làng Gọc, xã Kiến Quốc, Quê hương Khúc Thùa Dụ, nơi có nghề làm đình chùa nổi tiếng xứ Đông; thờ Khúc Thùa Dụ và thành hoàng Đào Hiển tướng của nhà Lý, hy sinh tại Khâm Châu (Trung Quốc )
Đình được xây dựng vào thời hậu Lê vơí quy mô lớn kiểu chữ công,7 gian tiền tế hai gian ống muống, ba gian hậu cung, năm 1950 bị giặc đốt phá, kiến trúc hiện tại nguyên là miếu Cúc Bồ chuyển về thay ngôi đình cũ, kiểu chữ đinh , 5 gian tiền tế , 3 gian hậu cung, kiến trúc Nguyễn; hiện còn nhiều cổ vật, điển hình là đôi quán tẩy trúc hoá long. Tại xã còn nhiều di tích thời Bắc thuộc.
Lễ hội hàng năm tổ chức vào 14-16 tháng giêng.
Di tích được xếp hạng năm 1998.
Đình Mộ Trạch
Tại làng Mộ Trạch hay làng Chằm Thượng, xã Tân Hồng, thờ Vũ Hồn người Phúc Kiến, năm 825 làm thứ sử Giao Châu -người lập ấp Khả Mộ nay là Mộ Trạch
Năm 843 Vũ Hồn nghỉ việc quan, mang mẹ về sống ở Khả Mộ và mất ở đây năm 853. Đình Mộ Trạch là trung tâm văn hoà của một làng có 39 tiến sĩ, đứng đầu cả nước về số người đỗ đại khoa thời phong kiến theo đơn vị làng. Đình Mộ Trạch nguyên ở xứ TâyTrù, giữa thế kỷ XVII, di vào vị trí hiện nay, tại giữa làng. Năm 1679, đình được xây dựng lớn, giữa thế kỷ XVIII bị giặc đốt. Năm 1757, bà Nhữ Thị Nhuận hưng công tái tạo. Công trình còn đến nay, kiểu chữ công quy mô lớn. Đình còn bia ký và một số đồ tế tự có giá trị .
Lễ hội hàng năm tổ chức vào ngày 8 tháng giêng .
Di tích được xếp hạng năm 1991
-
Đình Cao Xá
Tại thôn Cao Xá, xã Thái Hoà, thờ tướng quân Phạm Chí, Phạm Khí, Phạm Minh có công đánh giặc Ân thời Hùng Vương thứ 6. Trong kháng chiến chống Pháp, gần 500 thanh niên Hải Dương và Hưng Yên đã tập trung ở đình để vượt đường năm lên Việt bắc xây dựng tiểu đoàn 333 của binh chủng công binh.
Tiểu đoàn 333 và 60 là đơn vị đầu tiên xây dựng nên trung đoàn công binh Việt Nam đầu tiên.Binh chủng lập chiến công hiển hách qua hai cuộc kháng chiến. Đình khởi dựng vào thế kỷ XVII, công trình hiện còn trùng tu năm 1921, kiểu chữ nhị, tiền tế 5 gian, hậu cung 3 gian, quy mô lớn, đề tài điêu khắc dân gian phong phú; còn 6 đạo sắc, 1 tượng Chàm bằng đá xanh và nhiều đồ tế tự .
Lễ hội hàng năm tổ chức vào 6 tháng giêng.
Di tích được xếp hạng năm 1995
Đền Chùa Cậy
Tại làng Cậy ( tên nôm của làng Hương Gián) xã Long Xuyên. Đền thờ Bảo Phúc Đại vương là tướng của Hùng Duệ Vương, có công phù Hùng Vương chống giặc nhà Thục.
Đền có từ thời Hậu Lê, phải thay đổi địa điểm năm 1988. Chùa Cậy tên là Vĩnh Bảo Tự, trùng tu năm 1719, có quy mô lớn, tổng số 51 gian. Chùa bị phá vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trùng tu năm 1990, tại địa điểm cách chùa cũ 30m về phía nam. Đền và chùa hiện còn bảy đạo sắc, 15 tượng Phật, tượng Bảo Phúc đại vương và một bia đá lớn khắc năm 1717 . Cùng với di tích đền, chùa các di tích khảo cổ học gốm sứ tại Hợp Lễ, BáThuỷ và làng Cậy đều được khoanh vùng bảo vệ. Đây là một trung tâm sản xuất gốm quy mô lớn từ thế kỷ XV. Nay còn sản xuất với quy mô nhỏ .
Lễ hội hàng năm tổ chức vào 10 tháng 3, có trò thi bơi trải trên sông Sặt.
Di tích được xếp hạng năm 1994
-
Đình Nhân Kiệt
Tại thôn Nhân Kiệt xã Hùng Thắng. Thờ Đình Điền và Phu nhân. Quê Gia Viễn Ninh Bình, ông có công lớn trong việc xây dựng triều Đinh ở thế kỷ thứ X
Khi Lê Hoàn lên ngôi, giữ phận tôi trung, ông về trang Thanh Trung (Nhân Kiệt) khai hoang, lập ấp, đào sông. Cuối đời ông về Đằng Man, Lam Sơn (Thị Xã Hưng Yên) là quê vợ và mất ở đấy. Nhân Kiệt là Làng kháng chiến tiêu biểu của tỉnh. Đình có từ thời Lê Trung Hưng, trùng tu vào thời Nguyễn(1912) quy mô lớn gồm 3 toà, 12 gian, công trình bị phá huỷ trong kháng chiến chống Pháp, nay chỉ còn hậu cung, tiền tế, trùng tu năm 1994, di vật còn một tam quan lớn xây dựng năm 1929, thần tích và sắc phong
Hùng Thắng là một trung tâm sản xuất gốm thế kỷ XV- XVII ở các thôn Thuần Lương và Phúc Lão đã được khai quật và bảo tồn.
Lễ hội hằng năm tổ chức vào ngày 10-15 tháng hai.
Khu di tích được xếp hạng năm 1995
Chùa Phú Khê
tên tự là Thiên Phúc tự, tại thôn Phú Khê, xã Thái Học; thờ Phật theo phái Đại thừa. đây còn là cơ sở Cách mạng và kháng chiến. Xây dựng từ thế kyt XV, trùng tu vào TK XVI. Di tích hiện còn trùng tu năm Thành Thái 12(1900); kiểu chữ đinh, quy mô nhỏ, 5 gian tiền đườn, 3 gian hậu cung 3 gian. Liền kề phía nam có đền thờ Mẫu, phía tây có đình làng. Có 6 bia ký về qua trình xây dựng chùa từ TK XVI - XIX
Lễ hội hằng năm vào ngày
Di tích được xếp hạng năm 1997.
SimplePortal