Hội du lịch Việt Nam
Du lịch ba miền (Không quảng cáo tour ở đây) => Miền Bắc => Tác giả chủ đề:: Manga4vn vào Tháng Tám 03, 2008, 10:05:26 AM
-
Tất cả các bài viết trong Topic này đều thuộc bản quyền Trung tâm Công nghệ thông tin Du lịch & Sở Du lịch tỉnh Quảng Ninh (http://www.halong.com/)
Đình Phong Cốc
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/DinhPhongCoc1.gif)
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/DinhPhongCoc.gif)
Đình Phong Cốc nằm ở trung tâm xã Phong Cốc trên đảo Hà Nam thuộc huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, cách bến phà Chanh 5 km.
Đình được xây dựng từ cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18 thờ Thành Hoàng làng và tứ vị Thánh Nương.
Đình Phong Cốc kiến trúc theo kiểu chữ “đinh” (J) gồm bảy gian hai chái tiền đường, năm gian hai chái bái đường và hai gian hậu cung, với tổng chiều dài tới 35 m và rộng 15 m. Những cột cái của đình có chu vi hơn 1 m. Tám hàng cột chính và hai hàng cột trái đỡ một hệ thống mái lợp ngói cổ, rộng tới trên 600 m2, diềm mái lượn cong dần về hai góc mái hợp với đầu đao cong vút làm cho dáng đình thanh thoát, bay bổng. Hai cánh cửa chính bằng gỗ lim chạm hình rồng phượng bay trong mây. Qua nghệ thuật chạm khắc tinh xảo mà các nghệ nhân đã để lại trên các cốn, các bẩy và đặc biệt là các cảnh sinh hoạt rất sinh động bằng gỗ cho thấy đây là một công trình được dựng lên trong thời kỳ rực rỡ của nền kiến trúc Việt Nam.
Đình Phong Cốc vừa là điểm dừng chân hấp dẫn của du khách bốn phương và còn cung cấp nhiều tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu về kỹ thuật chạm khắc từ xa xưa.
-
Đình Trà Cổ
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dinhtraco1.gif)(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dinhtraco.gif)
Đình Trà Cổ nằm gần bãi biển rất đẹp thuộc phường Trà Cổ, thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Đình được xây dựng vào năm Quang Thuận thứ 2 (1462) và được sửa chữa nhiều lần về sau, nhưng vẫn giữ được những nét đặc trưng về phong cách kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc như lúc khởi dựng. Đình thờ Thành Hoàng làng là 6 vị Tiên Công người Đồ Sơn, Hải Phòng đã có công lập nên xã Trà Cổ (nay là phường Trà Cổ). Đình xây dựng theo kiểu chữ "đinh" (J) gồm năm gian hai chái tiền đường và ba gian hậu cung. Đề tài trang trí ở đây rất phong phú và đa dạng như long, ly, quy, phượng, lưỡng long chầu nguyệt, long hoá mây, cá chép hoá long, long mã, hổ phù, hoa văn dạng hoa lá, mây xoắn... Tất cả được thể hiện rất công phu, tài nghệ, mang đậm nét văn hoá cổ truyền của người Việt Nam.
Diện tích xây dựng đình 405 m2. Đình có 48 cột gỗ lim, cột cái cao 4,65 m; chu vi 1,5 m do các hiệp thợ ở Thanh Hoá dựng. Nóc đình hơi võng, bốn đầu đao uốn cong, các đầu bẩy mái hiên được chạm hình đầu rồng. Sàn đình cao 0,40 m.
Trong đình có hàng chục bức chạm trổ sinh động, nhiều câu đối hoành phi sơn son thếp vàng. Các bức cửa võng được chạm trổ hình tiên nữ cưỡi rồng bay trong mây, dưới là sóng biển nhấp nhô, phần trên là hình rồng chầu mặt trời. Ngoài hình tứ linh còn có hình hươu sao cổ dài, có sừng, cộc đuôi, tư thế chạy hay đứng quay đầu, mồm ngậm hoa cúc.
Hậu cung có diện tích khoảng 72 m2. Tại đây có bức chạm bông sen ở giữa giải hoa vuông, trước hậu cung có tấm y môn bằng lụa điều thêu rồng phượng.
Lễ hội đình làng Trà Cổ từ 30/ 5 đến 6/ 6 âm lịch.
-
Đình Quan Lạn
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dinhquanlan.gif)
Đình Quan Lạn nằm trong cụm di tích Đình, Chùa, Miếu, Nghè thuộc xã đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, cách Cẩm Phả 35 km, cách thành phố Hạ Long 55 km. Đình đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là cụm di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật.
Đình nằm ở trung tâm xã, trên bến thuyền (gọi là bến Đình). Đình được xây dựng từ thời hậu Lê (khoảng thế kỷ 17), được sửa chữa nhiều lần vào thời Nguyễn. Đình thờ thành hoàng làng là các vị tiên công đã có công lập ra xã Quan Lạn và thờ Trần Khánh Dư, người có công lớn trong trận đánh đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn, Cửa Lục góp phần quan trọng vào đại thắng Bạch Đằng năm 1288.
Đình Quan Lạn xây theo kiểu chữ công (I) gồm năm gian hai chái tiền đường, ba gian ống muống và ba gian hậu cung. Đình có 32 cột cái và 26 cột quân bằng gỗ mần lái và gỗ lim. Mái đình lợp bằng ngói vẩy, trên bờ nóc có hình lưỡng long chầu nguyệt. Đề tài trang trí ở đây chủ yếu là hình tượng rồng, phượng và hoa lá, được mô tả đa dạng trên mỗi bức cốn, đầu dư, câu đầu, cửa võng... Các đầu đao uốn cong khiến cho đình trông đồ sộ nhưng rất uyển chuyển và bay bổng. Các đầu bẩy đều chạm khắc hình rồng. Hiện vật có giá trị nhất còn lưu giữ ở đình là pho tượng Trần Khánh Dư và 18 sắc phong của các vua triều Nguyễn phong cho Thành Hoàng làng Trần Khánh Dư.
Bên cạnh đình Quan Lạn là chùa Quan Lạn thờ Phật và miếu Nghè Quan Lạn thờ ông Phạm Công Chính là người địa phương đã hy sinh trong trận Vân Đồn lịch sử. Đến Quan Lạn, bên cạnh việc thưởng ngoạn các giá trị văn hoá, du khách còn có dịp thỏa sức đùa rỡn cùng sóng biển ở hai bãi cát dài phẳng mịn (bãi Sơn Hào và Đầu Núi) và có thể tới bãi Minh Châu cách Quan Lạn 15 km.
Lễ hội đình Quan Lạn diễn ra từ 10 đến 20 tháng 6 âm lịch (chính hội 18 tháng 6).
-
Đình Trung Bản
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dinhtrungban1.gif)(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dinhtrungban.gif)
Đình Trung Bản nằm trên gò đất thuộc Xóm Thượng, thôn Trung Bản, xã Liên Hoà, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Đình được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử.
Đình xây dựng từ thế kỷ 15 và đã trải qua nhiều lần trùng tu, đến triều vua Khải Định xây dựng như ngày nay. Đình thờ Trần Hưng Đạo là Thành Hoàng của làng.
Đình Trung Bản kết cấu theo kiểu chữ đinh (J) gồm năm gian tiền đường, ba gian bái đường và hai gian hậu cung. Đình xây dựng trên diện tích 1.732 m2. Xung quanh đình là đồng ruộng, rừng cây, làng xóm, luỹ tre vừa yên bình, vừa thơ mộng. Hiện nay đình còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị từ thời hậu Lê, Nguyễn như hai tấm bia đá, kiệu bát cống, sập chân quỳ, quán tẩy, hoành phi, câu đối và sáu đạo sắc của các vua triều Nguyễn phong cho Thành Hoàng làng là Trần Hưng Đạo.
Đặc biệt là pho tượng Trần Hưng Đạo ngồi long ngai, mái tóc để xoã sau lưng, quần, áo, mũ, cân đai được chạm trổ công phu, tỉ mỉ, sơn son thếp vàng. Bức tượng được các nhà điêu khắc mỹ thuật Việt Nam đánh giá cao và coi như một trong những tượng mẫu chuẩn về Trần Hưng Đạo.
Hội đình Trung Bản diễn ra vào ngày 8 tháng 3 âm lịch cùng với hội đình Yên Giang, đền Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà, đền Trung Cốc, cũng là ngày kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng năm 1288.
-
Đình Yên Giang (An Hưng đình)
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dinhyengiang.gif)(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dinhyengiang1.gif)
Đình Yên Giang nằm trên một gò đất cao ở trung tâm xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử.
Đình xây dựng từ thế kỷ 16 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu. Năm 1952; 1993 được xây dựng lại như ngày nay. Đình thờ Trần Hưng Đạo, vị Thành Hoàng của làng.
Đình kiến trúc theo kiểu chữ "đinh" (J) gồm năm gian tiền đường, ba gian bái đường và một gian hậu cung. Hiện nay đình còn lưu giữ được một bát hương sứ thời Lê, hai bia đá chạm nổi trên trán, diềm hình rồng thời Nguyễn, câu đối, đại tự và 6 đạo sắc của các vua triều Nguyễn phong cho Thành Hoàng làng Trần Hưng Đạo, năm long ngai, một bộ kiệu bát cống và long đình được chạm trổ kênh bong sắc nét hình rồng và hoa lá sơn son thếp vàng thời Nguyễn.
Lễ hội đình Yên Giang được tổ chức vào ngày 8/ 3 âm lịch, là ngày chiến thắng Bạch Đằng năm 1288
-
Đình Lưu Khê
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dinhluukhe.gif)
Đình Lưu Khê thuộc thôn Lưu Khê, xã Liên Hoà, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử và nghệ thuật (Quyết đinh số 65 QĐ/BT ngày 16/ 1/ 1995).
Đình được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822) để thờ hai vị tiên công của làng là Đỗ Độ và Đào Bá Lệ đã có công chiêu tập người về vùng bãi bồi cửa sông Bạch Đằng để quai đê lấn biển, làm ăn sinh sống và lập nên xã Lương Qui vào năm 1434 (gồm hai thôn Quỳnh Biểu và Lưu Khê ngày nay).
Đình Lưu Khê kết cấu theo kiểu chữ "đinh" (J), các mảng chạm khắc ở đây mang đậm phong cách dân gian cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18 với hình rồng ngậm hạt ngọc, ngậm chữ thọ, hình long quần vũ, long vờn mây, lưỡng long chầu nguyệt, hình tôm, cá, hoa sen, lân, ly, qui, phượng; hoa văn hình hoa dây, lá lật cách điệu; hoa văn vân xoắn...
Lễ hội đình Lưu Khê diễn ra vào ngày 7 tháng giêng âm lịch cùng với lễ hội đền Thập Cửu Tiên Công. Trong dịp lễ hội có tục mừng thượng thọ cho các cụ trong làng từ 80 tuổi trở lên. Các cụ được rước ra đình, ra miếu để lễ tổ tiên. Nhiều trò chơi dân gian như cờ người, bài điếm, tổ tôm, chọi gà, đánh đu, đánh vật, hát đuổm, thể thao cũng diễn ra trong dịp này.
-
Đền Trung Cốc
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dentrungcoc.gif)(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dentrungcoc1.gif)
Đền Trung Cốc nằm trên gò đất cao ở giữa thôn Đông Cốc, xã Nam Hoà, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.
Ban đầu đền được xây dựng bằng tranh tre, đến năm Gia Long thứ 6 (1807) xây dựng lại như ngày nay. Đền thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão. Đền xây theo kiểu chữ "đinh" (J) gồm ba gian tiền đường và hai gian hậu cung. Trong đền có hai pho tượng Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão, một số sắc phong và đồ thờ tự có giá trị nghệ thuật cao.
Lễ hội đền Trung Cốc diễn ra vào ngày 8 tháng 3 âm lịch hàng năm. Cùng với bãi cọc Yên Giang, đền thờ Trần Hưng Đạo - miếu Vua Bà, cây lim Giếng Rừng, đình Trung Bản tạo thành một quần thể di tích phong phú cho Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288.
Tương truyền, để chuẩn bị cho xây dựng bãi cọc đồng Vạn Muối ở cửa sông Kênh, hai ông đã bị mắc cạn thuyền ở gò đất thôn Đông Cốc (ngày nay) và phải huy động dân binh, thuyền chài tới kéo thuyền ra. Để ghi nhớ sự kiện này, sau chiến thắng Bạch Đằng, nhân dân đã lập đền thờ ngay tại chỗ thuyền bị mắc cạn trước đây.
-
Đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/tranquocnghien.gif)(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/tranquocnghien1.gif)
Ngôi đền toạ lạc tại chân núi Bài Thơ thuộc khu vực Bến Đoan - Hòn Gai, thành phố Hạ Long. Đền được xây dựng trên một nền đất cao, lưng tựa vào vách núi, mặt hướng ra vịnh.
Đền thờ Đức Ông Trần Quốc Nghiễn, (Đền Đức Ông ) con thứ của Trần Hưng Đạo và là vị tướng tài ba dũng mãnh trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Ông còn là một người con tận hiếu, là người tôi tận trung. Để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, một ngôi đền thờ do các chủ thuyền thường hay qua lại dựng tại chân núi Bài Thơ.
Đền có từ rất lâu đời gồm có ba gian bái đường, một hậu cung. Đền thờ Mẫu nằm ở bên phải đền chính. Ban chính thờ Trần Quốc Nghiễn, ban bên phải thờ Đệ Nhất Vương Cô, ban trái thờ Đệ Nhị Vương Cô. Trong đền có đầy đủ nghi trượng, bát bửu, các đồ tế khí. Đền đã qua rất nhiều lần trùng tu.
Đền Đức Ông là một di tích đẹp và là một ngôi đền có tiếng linh thiêng. Du khách có dịp tham quan vịnh Hạ Long thường tới thăm ngôi đền.
-
Đền An Sinh và Lăng mộ nhà Trần
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/langmo.gif)
Đền và lăng mộ nhà Trần thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, nằm rải rác trong một khu đất rộng có bán kính 20 km để thờ "Bát Vị Hoàng Đế" thời Trần. Đây là một trong những công trình tưởng niệm có giá trị lớn trong lịch sử Việt Nam và đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử.
Đền và lăng mộ nhà Trần được xây dựng thời nhà Trần, được trùng tu vào thời Hậu Lê và thời Nguyễn, quần thể di tích gồm một đền và 8 lăng mộ.
Trải qua thời gian và thăng trầm của lịch sử, khu vực này đã bị hư hỏng nặng. Ngày nay với ý thức và lòng tự hào dân tộc nên khu đền Sinh và các lăng mộ nhà Trần đang dần được quan tâm khôi phục đúng với tầm cỡ của nó để bảo tồn và phát huy một di sản văn hoá quý báu của dân tộc và góp phần giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau, tạo thành một khu di tích thu hút du khách bốn phương.
Khu đền Sinh thuộc thôn Nghĩa Hưng là nơi thờ chung 8 vị vua Nhà Trần và lăng mộ của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Giản Định Đế. Lăng mộ Trần Anh Tông ở khu trại Lốc, lăng Trần Minh Tông ở khu Khe Gạch, lăng Trần Hiến Tông ở khu Ao Bèo, lăng Trần Dụ Tông ở khu Đống Tròn, lăng Trần Nghệ Tông ở khu Khe Nghệ.
Ngoài việc xây dựng điện miếu ở mỗi lăng làm nơi thờ cúng, triều đình còn cho xây dựng ở khu đền Sinh nhiều toà điện miếu lớn để làm nơi tế lễ bái yết và cắt cử các quan về trông coi cẩn thận. Toàn bộ khu vực này trở thành thánh địa tôn nghiêm qua các triều Trần, Lê, Nguyễn.
-
Đền Cửa Ông
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dencuaong1.gif) (http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dencuaong.gif)
Đền Cửa Ông tọa lạc trên một ngọn núi thấp trông ra vịnh Bái Tử Long, có cảnh quan tuyệt đẹp, thuộc phường Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, cách thành phố Hạ Long hơn 40 km về phía đông bắc, đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích thắng cảnh.
Đền được xây dựng từ đầu thế kỷ 19, gồm ba khu vực chính: đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, được phân bố ở ba vị trí khác nhau theo chiều lên cao dần. Đền Hạ thờ Mẫu, khu đền Thượng gồm đền chính thờ Trần Quốc Tảng, lăng Trần Quốc Tảng, đền Quan Châu, đền Quan Chánh và chùa. Đền chính lúc đầu thờ Hoàng Cầu, người anh hùng của địa phương, sau thờ Trần Quốc Tảng, người có công trấn ải vùng cửa Suốt và cũng là con trai thứ 3 của Trần Hưng Đạo.
Kiến trúc đền chính theo kiểu chữ “công” (I) gồm ba gian tiền đường, hai gian ống muống và ba gian hậu cung. Đây là đền duy nhất thờ đầy đủ gia thất Trần Hưng Đạo và các cận thần của ông còn lại đến ngày nay. Với 34 pho tượng lớn nhỏ đã được các nghệ nhân chạm trổ công phu, tỉ mỉ, sắc nét với tư thế ngồi trong ngai, khám, long đình rất cân đối, mang giá trị nghệ thuật cao. Đó là tượng Trần Hưng Đạo, tượng Thánh Mẫu (phu nhân Trần Hưng Đạo), hai công chúa (con gái Trần Hưng Đạo), Trần Quốc Tảng, Trần Anh Tông, Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Lê Phu Trần, Đỗ Khắc Chung... và một số câu đối, đồ thờ tự khác.
Từ lâu, đền Cửa Ông đã nổi tiếng linh thiêng không chỉ đối với nhân dân Quảng Ninh, mà nhân dân các tỉnh trong nước cũng tìm đến dâng hương, trẩy hội. Lễ hội đền Cửa Ông diễn ra từ ngày 2 tháng 1 âm lịch và kéo dài đến hết xuân.
-
Đền Trần Hưng Đạo
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dentranhungdao.gif) (http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/dentranhungdao1.gif)
Đền Trần Hưng Đạo toạ lạc trên đôi đất bên bờ sông Bạch Đằng thuộc địa phận xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, Quảng Ninh. Đền được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử cùng với miếu Vua Bà (số 100 VH/QĐ ngày 21/ 1/ 1990) bổ sung cho di tích Bãi cọc Bạch Đằng.
Đền Trần Hưng Đạo trước đây được xây dựng ở khu hậu đồng, cách đền ngày nay gần 1.000 m về hướng đông, năm 1936 mới chuyển về cạnh miếu Vua Bà ở vị trí hiện nay. Đền được xây dựng ngay trên mảnh đất diễn ra trận đại thắng Bạch Đằng năm 1288 mà những cọc gỗ dưới đầm Yên Giang là một minh chứng.
Đền kiến trúc theo kiểu chữ “đinh” (J), gồm ba gian tiền đường, hai gian bái đường và một gian hậu cung. Hiện vật quý còn giữ lại trong đền là một số câu đối ca ngợi công lao to lớn của Trần Hưng Đạo đối với giang sơn đất Việt, một bộ kiệu bát cống được chạm trổ, điêu khắc tỉ mỉ và bốn đạo sắc của các vua triều Nguyễn phong cho các chủ nhân đền Trần Hưng Đạo.
Lễ hội đền Trần Hưng Đạo - Miếu Vua Bà diễn ra vào ngày 8 tháng 3 âm lịch hàng năm.
-
Chùa Bắc Mã
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/chuabacma.gif)
Chùa Bắc Mã (Phúc Chí Tự) là một địa điểm lịch sử, trung tâm chiến khu Đông Triều, thuộc thôn Bắc Mã, xã Bình Dương, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử (Quyết định số 2379 QĐ/BT ngày 5/ 9/ 1994).
Chùa Bắc Mã được xây dựng từ thế kỷ 15 với quy mô lớn và đã qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1608, 1739, 1768, 1835. Đến năm 1926 xây dựng với quy mô lớn hơn. Đã có nhiều nhà sư trụ trì tại đây trong đó có nhà sư yêu nước như Võ Giác Viên, Võ Giác Thuyên..
Chùa Bắc Mã không chỉ thờ Phật, mà còn là chiến khu thứ tư ở Bắc Bộ, nên còn gọi là ”Đệ tứ chiến khu” và đã góp phần vào sự thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Sau những năm chiến tranh, chùa không còn nữa. Nhưng hàng năm cứ đến ngày 8/ 6 dương lịch, lãnh đạo và nhân dân huyện Đông Triều lại long trọng tổ chức lễ kỷ niệm và cũng lấy ngày ấy làm ngày hội của làng.
-
Chùa Long Tiên
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/chualongtien1.gif)
Chùa Long Tiên được xây dựng vào năm 1941, là ngôi chùa lớn nhất và là một di tích lịch sử danh thắng nổi tiếng ở thành phố Hạ Long. Chùa toạ lạc dưới chân núi Bài Thơ, gần chợ Hạ Long, tại phố cũng mang tên "Phố Long Tiên”.
Chùa có phong cách kiến trúc độc đáo hiếm thấy, mang phong cách kiến trúc và điêu khắc của các ngôi chùa thời nhà Nguyễn, kiểu chồng giường giá chiêng và những hoạ tiết hoa văn trang trí rồng phượng, hoa lá cách điệu. Trên đỉnh tam quan là tượng phật Adiđà với tư thế ngồi, dưới là gác chuông, nổi bật ba chữ “Long Tiên Tự”. Hai bên là hai câu đối. Chính điện thờ Phật, bên phải thờ các tướng lĩnh nhà Trần, bên trái là cung Tam Phủ Thánh Mẫu.
Chùa nằmở trung tâm thành phố nên rất thuận tiện cho khách đến viếng thăm. Trước kia, chùa Long Tiên mở hội chính vào ngày 24/3 (âm lịch). Còn hiện nay ngày nào cũng là hội. Khách du lịch Việt Nam và nước ngoài đến vãn cảnh chùa, các tín đồ dâng hương cúng Phật, tụng kinh... nhưng đông nhất là ngày rằm và mồng một hàng tháng và đặc biệt vào dịp Tết Nguyên đán.
-
Chùa Quỳnh Lâm
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/chuaquynhlam.gif) (http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/chuaquynhlam1.gif)
Chùa Quỳnh Lâm nằm trên đồi trong dãy núi vòng cung Đông Triều, thuộc xã Tràng An, huỵện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, cách thị trấn Đông Triều khoảng 3,5 km, cách thành phố Hạ Long 83 km. Chùa được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử và nghệ thuật.
Chùa nằm ở trung tâm ba xóm Thượng, Hạ, Sinh. Phía trước cửa chùa là hồ nước lớn, ba phía còn lại là đồi núi bao bọc. Với thế đất này được gọi là thế ngai vàng, hay thế "Rồng chầu hổ phục".
Chùa được hình thành từ đời Tiền Lý (khoảng cuối thế kỷ 5, đầu thế kỷ 6) và được tu sửa qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê. Đặc biệt chùa được tôn tạo và hoàn chỉnh vào thời Lý, Trần. Trong các thế kỷ11-14, thời kỳ cuối Lê và thế kỷ 17-18, Quỳnh Lâm đều là trung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam.
Vào thời Lý, nhà sư Không Lộ đã cho đúc một pho tượng Di Lặc bằng đồng cao 6 trượng (khoảng 20 m), được coi là một trong ”An Nam tứ đại khí” (bốn báu vật lớn của Việt Nam) và một tấm bia đá lớn cao 2,5 m, rộng 1,5 m với hoa văn hình rồng uốn lượn mềm mại. Nhưng chùa Quỳnh Lâm thực sự trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng trong thế kỷ 14 với hoạt động của Pháp Loa Đồng Kiên Cương - vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm.
Trên cơ sở chùa Quỳnh Lâm cũ, tháng 12 năm 1317 Pháp Loa cho xây dựng và thành lập viện Quỳnh Lâm với các kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh. Vào năm 1329, Quỳnh Lâm trở thành ”Đệ nhất danh lam cổ tích của nước An Nam”. Đây là trung tâm truyền kinh giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi cho đạo Phật, nhiều hội lớn có tiếng trong sử sách được tổ chức tại đây như hội ”Thiên Phật bảy ngày, bảy đêm” (1325)...
Trải qua thăng trầm của lịch sử, các công trình kiến trúc cổ của chùa Quỳnh Lâm đã bị huỷ hoại, nhưng nhiều hiện vật như tấm bia đá lớn thời Lý, khánh đá và vườn tháp... vẫn còn.
Năm 1319 Pháp Loa đã kêu gọi tăng nhân và phật tử chích máu in hơn 5.000 quyển kinh Đại Tạng cất giữ ở Quỳnh Lâm viện. Năm 1328 ông lại cho đúc một pho tượng Di Lặc. Sau đó ông tâu xin nhà vua cho được kéo tượng từ nền điện lên bảo toạ để dát vàng. Năm 1329 Pháp Loa cho đem theo một phần tro hài cốt của Nhân Tông (vị tổ thứ nhất của thiền Trúc Lâm) về đặt trong tháp đá của ở Quỳnh Lâm. Sang đầu thế kỷ 15 chùa bị phá huỷ nặng nề, phải trùng tu rất nhiều lần. Đến thế kỷ 18 (1727) chùa dựng tháp Tịch Quang bằng đá xanh (tháp mộ của nhà sư Chân Nguyên - một nhà sư có công lớn đối với chùa), tháp gồm 7 tầng cao 10 m, đỉnh tháp hình búp đa, trên tháp có gắn tấm bia ghi lại tiểu sử của sư Chân Nguyên. Đến giữa thế kỷ 18, chùa được trùng tu lớn, có cả chuông đồng, khánh đá.
Lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch, nhưng khách du xuân đến chùa trong suốt ba tháng xuân, với lòng thành kính của tất cả các tín đồ Phật tử gần xa tín tâm về đây dâng hương, lễ Phật.
-
Hồ Yên Lập - Chùa Lôi Âm
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/ChuaLoiAm02.gif) (http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/HoYenLap01.gif)
Cụm di tích Hồ Yên Lập - chùa Lôi Âm thuộc xã Đại Yên, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích thắng cảnh. Hồ cách Bãi Cháy - Hạ Long 20 km, có rừng thông bao bọc xung quanh.
Năm 1975, Hồ Yên Lập được hình thành tạo nguồn nước tưới tiêu cho các huyện Hoành Bồ, Yên Hưng, Uông Bí... với tổng diện tích 182,2 km2, trữ lượng nước trung bình là 128 triệu m3, độ sâu trung bình là 29,5 m. Hồ gồm một đập chính là đập Yên Lập và hai đập phụ là đập Nghĩa Lộ và đập Dân Chư. Đây là công trình thuỷ lợi lớn nhất của tỉnh Quảng Ninh. Sau khi hồ Yên Lập được hoàn thành, mực nước ở đây dâng cao, ôm quanh các chân núi tạo thành một hồ nước lớn có nhiều cảnh đẹp hấp dẫn với những đảo nhỏ nổi tự nhiên như đảo Bàn Tay, đảo Canh, đảo Cua, đảo Giáp Giới... cùng với hàng thông xanh thẳng tắp tạo nên cảnh huyền bí, kỳ diệu.
Du khách có dịp bơi thuyền trên hồ Yên Lập, đến chùa Lôi Âm, ngắm cảnh và lễ Phật. Chùa Lôi Âm được dựng vào thế kỷ 15 trên núi Lôi Âm, qui mô kiến trúc rộng lớn và đã trải qua nhiều lần trùng tu. Ngày xưa, chùa thu hút nhiều khách thập phương. Trải qua thăng trầm của lịch sử, chùa không còn nữa nhưng vẫn giữ lại được không gian rộng lớn của nền chùa với vườn tháp, vườn bia và cây hương đã có niên đại từ đầu thế kỷ 17.
Lễ hội chùa Lôi Âm diễn ra vào ngày 27/ 1 âm lịch hàng năm.
-
Miếu Tiên Công
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/mieutiencong.gif) (http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/mieutiencong1.gif)
Miếu Tiên Công nằm cạnh trụ sở Uỷ ban Nhân dân xã Cẩm La, huyện Yên Hưng, Quảng Ninh, đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử.
Miếu được xây dựng từ lâu, đến năm Gia Long thứ 3 (1804) thì xây dựng lại và được trùng tu, sửa chữa nhiều lần về sau. Miếu thờ 19 vị Tiên Công có công đầu tiên trong việc quai đê lấn biển, lập nên đảo Hà Nam với xóm làng trù phú gồm 7 xã như ngày nay.
Miếu kiến trúc theo kiểu chữ “nhị” (=) gồm ba gian, hai chái tiền đường và ba gian hậu cung, khám thờ bài vị, bia đá, câu đối, đại tự được chạm trổ điêu khắc mang dấu ấn thời Nguyễn. Lễ hội “Miếu Tiên Công” vào ngày 7 tháng giêng âm lịch hàng năm.
Xưa kia đảo Hà Nam là một bãi bồi ngập nước ở cửa sông Bạch Đằng. Năm 1434 khi vua Lê Thái Tông lên ngôi, cho mở mang kinh thành, 19 chàng trai quê ở phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, thành Thăng Long (trong đó có bốn người là Quốc tử giám sinh và ba người là hiệu sinh) đã rủ nhau xuống đây khai phá vùng đất mới. Các chàng trai đã dựa vào các doi đất cao ở bãi bồi này cùng với dân vạn chài ở đây quai đê lấn biển, lập nên phường Bông Lưu (sau thành xã Phong Lưu, gồm Cẩm La, Yên Đông, Phong Cốc).
-
Miếu Vua Bà
(http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/mieuvuaba1.gif) (http://www.halong.com/halongcom/images/quangninh/diemdulich/dinhchua/mieuvuaba.gif)
Miếu Vua Bà thuộc xã Yên Giang, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích lịch sử cùng với đền Trần Hưng Đạo.
Miếu được xây dựng từ thời Trần trên doi đất cổ, cạnh bến đò cũ ngày xưa và đã qua nhiều lần trùng tu sửa chữa. Đây là một trong số di tích nằm trong quần thể bãi cọc Bạch Đằng, đình Yên Giang, đền Trung Cốc và đình Trung Bản, những dấu ấn của Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử 1288.
Lễ hội đền Trần Hưng Đạo, miếu Vua Bà cùng diễn ra ngày 8 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Tương truyền rằng trong chuyến đi thị sát địa hình chuẩn bị chiến trường, Trần Hưng Đạo qua bến đò gặp một cụ bà bán nước đã hỏi thăm vùng đất này. Bà cụ đã cung cấp cho Trần Hưng Đạo lịch triều con nước, địa thế dòng sông và còn bày cho chiến thuật hoả công để đánh giặc. Sau khi thắng trận, Trần Hưng Đạo đã quay lại bến đò tìm bà cụ bán hàng nước thì không thấy nữa, ông đã xin vua Trần phong sắc cho bà là “Vua Bà” và lập đền thờ tại đây.
-
Hãy đến và bình chọn cho Hạ Long nha các bạn
-
Ở đây nhiều đình nhiều đền quá ta
SimplePortal