Hội du lịch Việt Nam
Du lịch ba miền (Không quảng cáo tour ở đây) => Miền Trung => Tác giả chủ đề:: Manga4vn vào Tháng Tám 01, 2008, 09:26:35 AM
-
Tất cả các bài viết trong Topic này đều có nguồn từ dalat.gov.vn
Bảo Tàng Tỉnh Lâm Đồng
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/BaoTangLamDong.gif)
Bảo Tàng Tỉnh Lâm Đồng trước đây đặt tại dinh thị trưởng cũ, trên một đỉnh đồi cao quanh co rất thơ mộng... ...được mệnh danh là “con đường tình ái”. Do cơ sở này được chuyển giao cho quân đội quản lý nên bảo tàng đã tạm ngưng hoạt động từ tháng 10 năm 1990 đến ngày 22 tháng 12 năm 1996 bảo tàng đã hoạt động trở lại phục vụ khách tham quan và du lịch tại địa chỉ mới số 4 đường Hùng Vương. Nơi đây nguyên là tòa biệt thự do ông Nguyễn Hữu Hào xây tặng con gái là Nam Phương Hoàng hậu mà người địa phương quen gọi là dinh Nguyễn Hữu Hào, tọa lạc trên một ngọn đồi thoáng đãng rộng 2,7 ha, cách trung tâm Đà Lạt chừng 3km về hướng Đông Bắc.
Bảo tàng Lâm Đồng có nhiệm vụ sưu tầm và giới thiệu các nghiên cứu, phát hiện về khảo cổ học, dân tộc học và kháng chiến qua 2 thời kỳ trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Hiện nay bảo tàng đang có 9 phòng trưng bày gồm các chuyên mục:
- Các thời kỳ lịch sử.
- Các hiện vật khảo cổ do cơ quan công an và quản lý thị trường thu giữ.
- Các hiện vật khảo cổ tại duy chỉ Đại Làng.
- Các hiện vật khảo cổ tại duy chỉ Đại Lào và Đạ Đờn.
- Các hình thức cư trú, các dụng cụ săn bắt và hái lượm.
- Các nghề truyền thống.
- Các trang phục và sinh hoạt.
- Lễ hội truyền thống và đời sống văn hóa tinh thần.
- Các hiện vật về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
- Trong tương lai, bảo tàng sẽ phát triển thêm 2 phòng trưng bày với các chủ đề:
- Lâm Đồng Đà lạt với thiên nhiên, đất nước, con người.
- Các thành tựu trong xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội.
Không chỉ dừng lại ở một bảo tàng đơn thuần, với chủ trương đa dạng hóa các hoạt động nhằm thu hút khách tham quan và du lịch, nơi đây sẽ dần dần định hình như một trung tâm sinh hoạt văn hóa. Với khoảng 4 nhà sàn đặt trưng của các dân tộc bản địa Mạ, K’Ho, Churu sẽ được sưu tầm về đây mà ở đó sẽ tổ chức giới thiệu một số sinh hoạt truyền thống như làm gốm, đan lát, dệt thổ cẩm... hoặc tổ chức các lễ hội như đâm trâu, cồng chiêng, uống rượu cần vào những dịp đặc biệt… bảo tàng Lâm Đồng đang có những nổ lực nhằm tạo cho mình một sức hấp dẫn riêng biệt.
Tham quan nơi đây, du khách sẽ có dịp tìm hiểu đời sống va sự tiến hóa của các dân tộc bản địa qua các thời kỳ, ngoài ra còn được mục kích những bộ đàn đá Di Linh, B’Lao khá nổi tiếng có niên đại từ 3500-3000 năm, các di tích kiến trúc P’Roh (huyện Đơn Dương), Cát Tiên (huyện Cát Tiên), các duy chỉ khảo cổ được khai quật từ mộ tán của các dân tộc bản địa như Đại Làng (huyện Bảo Lâm), Đại Lào (thị xã Bảo Lộc), Đạ Đờn (huyện Lâm Hà)… đây là bộ sưu tập khá phong phú với gần 10000 tiêu bản gốm sứ, hiện vật đồng, sắt, có giá trị tầm cỡ ở khu vực Đông Nam Á.
-
Chùa Linh Phước
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/ChuaLinhPhuoc.gif)
Chùa Linh Phước tọa lạc tại số 120 Tự Phước, cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 8 km về hướng Đông Nam. Chùa được khởi công xây dựng từ 1949 đến 1952 mới hoàn thành. Năm 1990 chùa trùng tu lại toàn bộ, xây dựng cổng tam quan ngay mặt đường để khách dễ nhận biết, vì thực tế chùa nằm sâu trong hẻm cách mặt đường chừng 80m.
Bước vào sân chùa, du khách sẽ thấy choáng ngợp với tiền đường bảo tháp cao 27m được trang trí bằng những hình rồng độc đáo. Gian chánh điện dài 33m, rộng 22m với trần nhà được đỡ bằng 12 cột rồng khảm mảnh sành. Tại điện thờ, tượng Phật Thích Ca uy nghi trên tòa sen cao 4,9m được tiếp vàng rực rỡ.
Bên phải chánh đường là Tổ đường, còn bên trái sau bức Cửu long môn uốn mình chầu Phật là Long Hoa viên với hồ nước và hòn giả sơn, cây cảnh và vườn phong lan. Một hình rồng dài 49m uốn quanh hồ nước với đầu rồng che phủ tượng đài Di Lặc dựa theo tích Pháp hội Long Hoa, toàn thân rồng được khảm tạo vây bằng mảnh của 12.000 vỏ chai bia các loại.
Ngày 08-11-1999 (tức 01-10 năm Kỷ Mão), chùa đã đúc thành công đại hồng chung có chiều cao 4,3m, miệng rộng 2,2m và nặng chừng 10 tấn.
Trụ trì chùa từ 1985 đến nay là Đại đức Thích Tâm Vị.
-
Chùa Linh Sơn
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/linhson1.gif)
Chùa Linh Sơn tọa lạc trên một ngọn đồi rộng 4 ha trên đường Nguyễn Văn Trổi, cách trung tâm Thành Phố Đà Lạt gần 1 km về hướng Tây-Bắc. Chùa được xây dựng từ năm 1936 - 1940 do công đức của bá tánh thập phương nhất là nỗ lực của hai ông Võ Đình Dung và Nguyễn Văn Tiến.
Con đường vào chùa rợp bóng hàng thông và cây sao cao vút – ngay trước sân chùa quý khách đã nhìn thấy tượng Quan Thế Âm đứng trên đài sen, bên trái chùa có ngôi bảo tháp cao ba tầng hình bát giác, còn bên phải chùa có những hòn giả sơn và bonsai tạo dáng thật đẹp. Nơi đây còn có một hồ nước nổi bật giữ đám cỏ xanh với những bông súng khoe sắc màu, những chú cá vàng bơi nhởn nhơ trông thật vui mắt.
Chùa có lối kiến trúc Á Đông, giản dị với hai mái xuôi, trên đỉnh mái có đắp đôi rồng uống lượn theo thế “ lưỡng long triều nhật”. Hai bên bật cấp dẫn vào chánh điện cũng có cặp rồng há miệng được chạm khắc công phu tượng trưng long thần hộ trì Phật pháp.
Bên trong chùa, điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chánh điện thờ Đức Thích Ca Mâu Ni đang tham thiền nhập định trên toàn sen – tượng bằng đồng nặng 1.250kg được đúc vào năm 1952.
Trụ trì chùa từ năm 1964 đến nay là hòa thượng Thích Từ Mẫn – Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Lâm Đồng hiện đặt văn phòng tại đây.
-
Chùa Thiên Vương Cổ Sát
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/ChuaTau.gif)
Chùa Tàu hay chùa Phật Trầm có tên gọi đầy đủ là chùa Thiên Vương Cổ Sát, tọa lạc trên một đồi thông cuối đường Khe Sanh được gọi là Đồi Rồng, cách trung tâm Đà Lạt 5km về hướng Đông Bắc. Chùa được Hòa thượng Thọ Dã thuộc Hội quán Triều Châu xây dựng năm 1958 gồm 3 gian nhà bằng gỗ lộp tôle. Năm 1989, ông Lê Văn Cảnh đã đứng ra trùng tu xây dựng, lúc này ngôi nhà giữa đã được tháo dỡ nhằm tạo không gian thông thoáng cho hai tòa nhà còn lại.
Tại Từ Tôn Bảo điện, ngay giữa điện thờ có điện phật Di Lặc, cao chừng 2.5m và tượng phật Thích Ca cao 0.5m; tại 4 góc Bảo Điện có tượng Tứ Đại Thiên Vương cao 2.6m được đúc bằng xi măng.
Qua một khoảnh sân là đến Minh Quang Bảo Điện, tại đây thờ Tây Phương Tam Thánh gồm các tượng A Di Đà Phật ở giữa, Qua Thế Âm Bồ Tác bên trái và Đại Thế Chí Bồ Tác bên phải. Đây là những bức tượng quí được tạc từ gỗ trầm cao 4m và nặng 1.5 tấn do Hòa thượng Thọ Dã thỉnh từ Hồng Kông năm 1958. Nơi đây cũng còn hai tượng Văn Thù và Phổ Hiền ở hai bên vách bảo điện.
Phía sau chùa sau ngọn đồi, nơi trước đây là cốc của nhà sư Thọ Giã, đã xây dựng Thích Ca Phật Đài cao chừng 10m thật đẹp giữa đồi thông lộng gió. Hiện chùa chỉ có bà Diệu Anh phụ rách hoa, đèn và đọc kinh
-
Trường Đại Học Đà Lạt
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/Tdhoc.gif)
Trường Đại học Đà Lạt nằm về phía Bắc hồ Xuân Hương, trên đường Phù Đổng Thiên Vương, cách trung tâm thành phố Đà Lạt chừng 2km. Toàn bộ khu vực nằm trên một cụm đồi rất thơ mộng nhìn sang sân golf rộng khoảng 38ha với hơn 40 toà nhà lớn nhỏ ẩn hiện thấp thoáng giữa rừng thông.
Được thành lập do Nghị Định số 67/BNV/NA/P5 ngày 8-8-1957, Viện đại học Đà Lạt có cơ sở nguyên là Trường Thiếu Sinh Quân hỗn hợp Âu Á (École d’Enfants de Troupe de DaLat – Thành lập năm 1939), được quản lý do Hội đồng Giám mục Việt Nam và là Đại học tư thục đầu tiên tại Việt Nam. Với danh hiệu là THỤ NHÂN tức trồng người, Viện Đại học Đà Lạt đã chính thức hoạt động từ năm học 1958 – 1959 với 5 Khoa (trường) Sư phạm, Văn khoa, Khoa học, Thần học và được biết đến nhiều nhất là Chính trị Kinh doanh.
Sau ngày đất nước thống nhất, Viện Đại học Đà Lạt được nhà nước quản lý và đổi thành Trường Đại học Đà Lạt theo quyết định số 426 TTg ngày 27-10-1976 của Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay trường có 18 ngành học với 7 chương trình Giáo dục đại cương, 10 chương trình Cử nhân Khoa học, 8 chương trình Cử nhân Sư phạm, tiếp nhận khoảng 14.000 sinh viên theo học hàng năm. Trường cũng có mối quan hệ thường xuyên với khoảng 30 tổ chức quốc tế và các Trường đại học trên thế giới.
-
Đà Lạt Sử Quán
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/XQ2.gif)
Trên đường vòng Lâm viên, cách Thung Lũng Tình Yêu chừng vài trăm mét, một vùng cảnh quan đang được kiến tạo mà những nét chấm phá gợi liên tưởng đến sự trở về cội nguồn phương Đông !
Có lẽ dễ nhận thấy rằng, Đà Lạt ngày nay đang đối mặt với quá nhiều nguy cơ, từ nguy cơ bê tông hóa, nguy cơ xuống cấp đến nguy cơ nông thôn hóa, nguy cơ ô nhiễm,...chính những nguy cơ này cộng với một thực tế là những cách rừng cứ ngày một lùi xa để thay vào đó bằng những kiến trúc vuông thành sắc cạnh, Đà Lạt đã không còn giữ được nét tinh khôi của những ngày vừa được tạo dựng.
Ý thức được trách nhiệm của một người dân thành phố, những người chủ của Đà Lạt Sử quán đang nuôi tham vọng tái hiện một cách nào đó cái bản sắc văn hóa dân tộc mà trong một chừng mực nhất định đang có xu hướng bị loại trừ. Bằng những yếu tố đá, cỏ, cây, hoa, nước, núi hay thơ ca, hội họa, kiến trúc, kể cả những món ăn dân dã đặc trưng... Đà Lạt Sử quán muốn mời du khách đi vào chiêm niệm với những thư pháp sinh động, những tứ thơ ngọt ngào, những dòng suối êm ả, những ngọn thác mát lành hay những tinh hoa của đất...tất cả làm thành một ấn tượng thanh tẩy để Đà Lạt tìm lại được mình của một thuở ban sơ.
Bằng ý thức trách nhiệm và lòng yêu mến quê hương, những người Đà Lạt hôm nay đang làm nên trang sử mới !...
-
Dinh I
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/Dinh1.gif)
Theo đường Trần Hưng Đạo đến ngã 3 Trại Hầm rồi rẽ phải đi tiếp đường Trần Quang Diệu, du khách sẽ đến được Dinh I, nơi mà sau khi người Pháp trở lại nắm quyền (1948) và lập Hoàng Triều Cương Thổ (1950), vua Bảo Đại đã dùng làm Tổng hành dinh và nơi làm việc cho các quan chức trong “lãnh thổ” của mình.
Nằm cách trung tâm Đà Lạt chừng 4 km về hướng Đông-Nam, trên một ngọn đồi thơ mộng có độ cao 1.550m với những rừng thông bao quanh. Dinh 1 là một công trình kiến trúc độc đáo trong dáng vẻ cổ kính, uy nghi và tao nhã khiến ai đã một lần đến đây đều phải trầm trồ cảm thán. Nguyên đây là nhà của một viên chức người Pháp tên Robert Clément Bourgery - thấy nơi đây khá đẹp lại yên tĩnh nên chính phủ Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng đã mua lại từ tháng 8-1949 và sửa sang toàn bộ dinh cơ này.
Khi xây dựng Dinh người ta phát hiện ra một đường hầm bí mật, nhưng vua Bảo Đại đã chỉ thị dấu kín. Đường hầm này nằm ngay sau lưng Dinh 1 thông ra tận Dinh 2, dài gần 4km với các nhánh rẽ vào các biệt thự 11, 16, 18, 26 … Trần Hưng Đạo - người Nhật đã đào từ trước khi đảo chánh Pháp với ý đồ bắt sống các sĩ quan Pháp trong Dinh Toàn Quyền cũng như ở các biệt thự xung quanh (!)
-
Dinh II
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/Dinh%202.gif)
Dinh II là dinh thự mùa hè của Toàn quyền Decoux, hay còn gọi là dinh Toàn quyền, là nơi ở và làm việc của Decoux vào mùa hè hàng năm, từ tháng 5 đến tháng 10.
Tọa lạc trên một ngọn đồi thông rợp bóng ở độ cao 1.540m trên đường Trần Hưng Đạo, cách trung tâm Đà Lạt 2km về hướng Đông-Nam. Dinh 2 được xây dựng từ năm 1933 là một tòa lâu đài tráng lệ gồm 25 phòng được bài trí cực kỳ sang trọng. Đứng ở nơi đây, du khách có thể nhìn thấy hồ Xuân Hương cách xa chừng 1km thấp thoáng qua những tán lá thông.
Từ ngày chuyển Phủ Toàn Quyền về đây làm việc, Decoux đã cho xây dựng những đường hầm bí mật rất kiên cố nhằm bảo đảm an toàn tuyệt đối cho ông và gia đình. Đường hầm này được nối vào hầm chứa rượu với bề ngang chừng 1.5m và bề cao hơn 1m với nhiều ngóc ngách được đổ bê tông chắc chắn.
Dưới thời Ngô Đình Diệm, Dinh 2 trở thành nơi nghỉ mát của gia đình Ngô Đình Nhu. Năm 1964 khi tướng Nguyễn Khánh lên nắm quyền trong bối cảnh chính trị đầy bất trắc, ông đã chọn Dinh II0 làm Tổng hành dinh trong mùa nghỉ mát và đã cho tu bổ xây dựng thêm các đường hầm bí mật trên tận sườn đồi theo hướng Đông-Nam và Tây-Bắc phòng khi có đảo chánh.
-
Dinh III
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/Dinh3.gif)
Dinh III là tên gọi để chỉ biệt thự nghỉ hè của vua Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn đồng thời cũng là vị hoàng đế cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam. Sau này khi người Pháp đưa Bảo Đại trở lại nắm quyền từ năm 1948 rồi thành lập “Hoàng triều Cương Thổ” vào năm 1950, nơi đây còn được gọi là Biệt điện Quốc trưởng. Được xây dựng từ năm 1933 gồm 25 phòng, Dinh 3 là một tòa dinh thự vô cùng trang nhã, gắn mình trong khung cảnh thơ mộng của một đồi thông ở độ cao 1539m trên đường Triệu Việt Vương, cách trung tâm Đà Lạt chừng 2km về hướng Tây-Nam.
Do một may mắn của lịch sử, Biệt điện Quốc trưởng còn được bảo tồn gần như nguyên trạng khiến cho du khách đến đây có thể cảm nhận một bầu không khí vừa trang nghiêm lại vừa gần gũi, ấm cúng của một gia đình hoàng tộc căn phòng làm việc của vua Bảo Đại với những ấn tín quân sự, ngọc tỷ của Hoàng đế, quốc thư, quốc kỳ các nước có quan hệ ngoại giao, tượng bản thân của vua Bảo Đại và vua cha Khải Định, phòng của hoàng hậu Nam Phương, hoàng tử Bửu Long. Phương Mai công chúa, hình ảnh gia đình và những vật dụng thường ngày…tất cả đều như mới hôm qua một chút gì đó se sắt chạnh lòng gợi nhớ một thuở vàng son nay đã không còn !
-
Đồi Cù
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/Doicu.gif)
Vừa đặt chân đến trung tâm thành phố, du khách có thể nhìn thấy những quả đồi tròn trịa mấp mô tựa hồ một thảo nguyên soi bóng xuống mặt hồ nước phẳng lặng, đó là Đồi Cù mà có người ví như trái tim, như nhịp thở của Đà Lạt.
Đồi Cù và hồ Xuân Hương nằm kề bên thường được nhắc đến như một địa danh kép - nhiều người cho rằng Đà Lạt sẽ kém phần mỹ lệ nếu thiếu Đồi Cù và hồ Xuân Hương. Ngay từ 1942, khi thiết kế đồ án quy hoạch thành phố Đà Lạt kiến trúc sư Lagisquet đã khoanh vùng Đồi Cù như một khu vực “bất khả xâm phạm” nhầm tạo một tầm nhìn thoáng đãng cho Đà Lạt. Về sau, một kiến trúc sư người Anh đã thiết kế biến Đồi Cù thành sân golf 9 lỗ khá nổi tiếng của vùng Đông Nam Á.
Tên Đồi Cù không rõ có từ bao giờ, còn vì sao gọi “Đồi Cù” lại có hai hướng lý giải có người cho rằng những quả đồi thoai thoải nơi đây khi nhìn từ xa giống như tấm lưng trần của những con cù khổng lồ nên đã ví von gọi là “Đồi Cù”; cũng có người giải thích sở dĩ có tên “Đồi Cù” vì nơi đây là một địa điểm chơi golf hay còn gọi là đánh cù, và tên “Đồi Cù” đã từ môn chơi này mà có.
Hiện nay Đồi Cù đã được nâng cấp thành sân golf 18 lỗ, là liên doanh giữa công ty Du lịch Lâm Đồng và công ty Da Nao Hồng Kông.
-
Ga Đà Lạt
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/GaDalat.gif)
Trong các tuyến giao thông nối Đà Lạt với các địa phương khác, đã từng tồn tại tuyến đường sắt nối Đà Lạt với Tháp Chàm (Tourcham) được khai trương từ năm 1933, và ga Đà Lạt khánh thành năm 1938 đã được đánh giá là nhà ga đẹp nhất Đông Dương lúc bấy giờ.
Đoạn đường sắt dài 84 km với 16 km đường răng cưa (Crémailère) được người Thụy Điển với nhiều kinh nghiệm về đồi núi thiết kế, đã cho phép du khách cùng con tàu hì hục leo qua những tầng dốc cao hay chui vào những đoạn đường hầm tối tăm, trong một cảm giác phiêu lưu thú vị khi thấy núi rừng hùng vĩ chầm chậm lướt qua tầm mắt... vậy mà do tình trạng chiến tranh, một vài đoạn trong tuyến đường không đảm bảo an ninh nên cả một tuyến đường sắt độc đáo đành phải bỏ hoang phế theo thời gian.
Năm 1991, trong nỗ lực góp phần đa dạng hoá sản phẩm du lịch Đà Lạt, tuyến đường sắt nối Trại Mát với Đà Lạt dài 7 km đã được khôi phục với chi phí cải tạo lên đến 11 tỉ đồng. Thực tế hiện nay vẫn chưa xác định du lịch gì ở Trại Mát, ngoài việc du khách có thể vãng cảnh chùa Linh Phước gần đó nhưng cũng thật khó khăn bởi đường đi và thời gian còn có nhiều giới hạn.
Gác qua một bên những bất cập của tour du lịch có cái tên khá ấn tượng “Tham quan Trại Mát”, du khách vẫn còn lợi thế được ngắm nhìn thành phố Đà Lạt từ trên cao khi cùng đoàn tàu uốn mình vòng vèo qua sườn núi, chiêm ngắm những cảnh sắc thiên nhiên biến hóa kì ảo trong tầm mắt, đặt biệt còn tận hưởng nguồn không khí trong lành của vùng cao nguyên, nơi mà những áp lực của sự phát triển chưa kịp vươn tới làm nhiểm bẩn môi sinh.
-
Hồ Suối Vàng
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/BaoTangLamDong.gif)
Rời trung tâm Đà Lạt theo hướng Bắc đi Lạc Dương, đến km 7 Tùng Lâm rẽ trái, du khách còn phải vượt qua đoạn đường dài khoảng 12km gập ghềnh uốn lượn giữa những đồi thông chập chùng trước khi đến được hồ Suối Vàng, nơi mà 100 năm trước đây khi lần đầu tiên đặt chân đến vùng đất này, ngẩng ngơ trước cảnh sắc thơ mộng kỳ ảo của thiên nhiên còn nguyên vẹn nét hoang sơ, Yersin đã chạy nhảy reo hò như một cậu học trò nhỏ để sau này đề nghị với toàn quyền P. Doumer cho xây dựng khu nghỉ dưỡng nơi đây.
Hồ Suối Vàng gồm hai hồ là Dankia ở trên và Ankroet ở dưới, được tạo bởi hai đập cùng tên Ankroet chắn dòng sông Đa Dung phát nguyên từ núi Langbian; cạnh đó là một thác nước trắng xóa cũng mang tên Ankroet - thác này đã được toàn quyền Decoux chọn làm nơi xây dựng nhà máy thủy điện đầu tiên của Đà Lạt vào năm 1942.
Hồ Suối Vàng có sức chứa khoảng 20 triệu khối nước, ngoài việc cung cấp nguồn nước trong lành cho thành phố Đà Lạt, còn được dùng để vận hành tổ máy phát điện của nhà máy thủy điện Ankroet với công suất năm đạt 15 triệu kw/h.
Nơi đây còn có nhà máy nước Suối Vàng khá hiện đại do Đan Mạch giúp xây dựng hoàn thành năm 1984 với công suất 18.000m3/giây, với sự kiểm nghiệm thường xuyên của Trung tâm Y tế dự phòng đã xác nhận nước đầu nguồn luôn đạt tiêu chuẩn vệ sinh cần thiết.
Dankia - Suối Vàng ngày nay đã được nhìn nhận đúng với giá trị thực của nó. Trong một tương lai không xa nơi đây cùng với khu vực Tuyền Lâm sẽ là một đối trọng của Đà Lạt hiện nay đã bị bê tông hóa tràn lan đến bực bội. Một liên doanh gồm một bên là Tỉnh Lâm Đồng và một bên là Singapore đã có kế hoạch đánh thức nàng sơn nữ Dankia với hàng trăm hạng mục lớn nhỏ sẽ được dựng lên bên hồ, trên hồ và giữa những đồi thông, thảm cỏ mượt mà … chúng ta có quyền hy vọng nơi đây sẽ đem lại sức hấp dẫn quyến rũ cho một vùng đất huyền thoại luôn làm say đắm biết bao khách viễn du…
-
Hồ Than Thở
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/Httho.gif)
Hồ Than Thở nằm cách trung tâm Đà Lạt khoảng 6km về hướng Đông-Nam, trên đường đi Chi Lăng – Thái Phiên. Thoạt đầu nơi đây chỉ là một hồ nhỏ, không rõ từ lúc nào được gọi là Hồ Than Thở. Về sau người Pháp đã làm đập chặn nước tạo thành hồ và đặt tên là Lac des Soupirs, mãi đến năm 1956 hồ mới được gọi theo tên cũ.
Năm 1975, sau khi hòa bình lập lại, có lẽ cho rằng cái tên Than Thở ủy mị quá, đã có lúc hồ được đổi tên thành Sương Mai. Nhưng trong lòng người dân Đà Lạt cũng như du khách đều luyến lưu tên cũ, không gọi Sương Mai cho đến năm 1990, chính quyền địa phương đã cho sử dụng lại tên cũ của hồ.
Hồ Than Thờ gắn liền với bao truyền thuyết tình sử thật buồn đã như có ma lực hấp dẫn biết bao du khách đến đây ngắm nhìn mặt hồ phẳng lặng trầm ngâm, để nghe tiếng lá thông xì xào trong gió, và để thả hồn đồng cảm mộng du cùng huyền sử xa xăm.
Ngày nay hồ Than Thở được Công ty Huy Hoàng rồI Công ty Thùy Dương đầu tư tôn tạo thành một công viên giải trí với những bồn hoa thảm cỏ được chăm tỉa công phu, những trò chơi đu quay, xe đạp nước, cưỡi ngựa … tuy có thay đổi bộ mặt ảm đạm của hồ nhưng cũng vì thế làm mất đi nét trầm mặc huyễn hoặc vốn đã là cái “hồn” của hồ Than Thở (!)
-
Hồ Xuân Hương
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/SH_HXUANHUONG.gif)
Nằm ngay trung tâm thành phố, ở độ cao 1.477m, Hồ Xuân Hương nguyên là thung lũng có dòng suối Cam Ly chảy qua, nơi quy tụ của các cư dân Lạch buổi ban đầu.
Năm 1919, từ sáng kiến của viên Công sứ Counhac, kỹ sư công chánh Labbe đã tiến hành việc ngăn dòng suối làm thành hồ. Đến năm 1923 lại xây thêm một đập nữa ở phía dưới tạo thành hai hồ.
Do ảnh hưởng của cơn bão tháng 3 năm 1932, cả hai đập đều bị vỡ. Mãi đến năm 1934-1935 một đập lớn bằng đá mới được kỹ sư Trần Đăng Khoa thiết kế xây dựng phía dưới hai đập cũ tạo thành một hồ lớn - người Pháp gọi là Grand Lac. Đập này nằm trước dinh Quản Đạo mà vị Quản đạo lúc này là Phạm Khắc Hoè vẫn được dân địa phương xưng gọi “Ông Đạo”, nên khi đập cũng là cầu xây xong, người dân quen gọi là cầu Ông Đạo, còn tồn tại đến ngày nay.
Hồ có chu vi 5.000m, rộng 25ha với hình dạng trăng lưỡi liềm. Mặt hồ phẳng lặng như tấm gương soi bóng những tán tùng già cỗi, những hàng liễu rũ thướt tha và sẽ đẹp hơn khi mùa xuân về, lúc những cánh anh đào nở rộ một màu hồng rực rỡ khiến mặt hồ bừng lên như đôi má cô gái Đà Lạt tuổi xuân thì.
Hồ được mang tên Xuân Hương từ năm 1953 như muốn làm sống mãi hình ảnh lãng mạn của nữ sĩ thơ Nôm nổi tiếng Việt Nam thế kỷ thứ 19 Hồ Xuân Hương.
-
Lãnh Địa Đức Bà
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/Domain.gif)
Domainne de Marie hay Lãnh địa Đức Bà là tên gọi cụm kiến trúc gồm nhà nguyện và hai dãy nhà phía sau của tu viện nữ tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn (Filles de la charité de saint Vincent de Paule), được xây dựng từ năm 1930-1943 trên một ngọn đồi thoáng đẹp đường Ngô Quyền rộng 12 ha, cách trung tâm thành phố Đà Lạt hơn 1km về hướng Tây Nam. Đây là một kiến trúc độc đáo mang phong cách Châu Âu thế kỷ XVII nhưng đã được thực hiện với vật liệu hoàn toàn của Việt Nam - ngôi nhà nguyện mới được quét lại màu sơn vàng với mái ngói đỏ nổi bật giữa bầu trời xanh và cây lá cũng rất xanh.
Trong nhà thờ, đặc biệt có bức tượng Đức Mẹ đứng trên quả địa cầu được tạc theo hình mẫu người phụ nữ Việt Nam, do Janchère - kiến trúc sư người Pháp thiết kế. Tượng cao 3m, nặng 1 tấn được làm năm 1943 và do bà Decoux dâng cúng. Phía sau nhà thờ có phần mộ phu nhân toàn quyền Decoux – bà Suzanne Humbert, ân nhân chính đã giúp xây dựng tu viện và có nguyện vọng được an nghỉ tại đây sau khi qua đời. Bà bị tai nạn giao thông tại đèo Prenn và mất ngày 06/01/1944.
Trước năm 1975, nơi đây là tu viện chính với hơn 50 nữ tu đa số là người Việt tu trì và làm công tác xã hội, như mở cô nhi viện, nhà trẻ, các nữ tu cũng điều hành một trường huấn luyện thể thao và một trường trung tiểu học dạy chương trình Pháp. Hiện nay ngoài nhà nguyện và hai dãy tu viện, các cơ sở khác đã được sử dụng cho công ích.
Tuy dòng chính đã chuyển về thành phố Hồ Chí Minh, nhưng để thực hiện tôn chỉ của dòng là phục vụ người nghèo, các nữ tu vẫn cố duy trì một trường mẫu giáo bán công thu nhận khoảng 200 cháu, ngoài ra còn mở những lớp dạy nghề miễn phí cho người lao động gồm các môn: đan, móc, thêu, may.
Ngày nay các “nữ tử Bác Ái thánh Vinh Sơn” đang có mặt trong nhiều môi trường xã hội, như chăm sóc trẻ em chậm phát triển, giúp đỡ các cô nhi, chữa trị bệnh cho người nghèo, phục vụ bệnh nhân phong tại trại phong Di Linh...Trong âm thầm, tất cả như muốn nói “chỉ với lòng nhân ái chia sẻ, con người mới thật sự là đồng loại của nhau...”và đó cũng chính là tinh thần “sống phúc âm giữa lòng dân tộc” như lời kêu gọi của hội đồng Giám mục Việt Nam gởi cộng đồng dân Thiên chúa năm 1980.
Từ sau năm 1975, tên Domaine được Việt hóa thành Đồi Mai Anh. Du khách đến đây nếu có thể vào tham quan vườn hoa phía sau, sẽ có dịp chiêm ngắm dàn Hài Tiên khá hiếm nở hoa thật đẹp.
Giờ lễ:
Ngày thường: 17h15
CN: 6h00
-
Lâu Đài Mạng Nhện
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/LauDaiMangNhen.gif)
Nằm tại số 3 đường Huỳnh Thúc Kháng, cách trung tâm Đà Lạt chừng 1km về phía Tây Nam, biệt thự Hằng Nga hay lâu đài Mạng Nhện là tên gọi công trình kiến trúc của tiến sĩ Đặng Việt Nga mà theo nhận xét của một du khách nước ngoài, đây là tòa lâu đài độc đáo, khác thường và hoang tưởng nhất Việt Nam, nếu không nói là của vùng Đông Nam Châu Á”.
Qua vòm cổng nhỏ, du khác sẽ lạc vào một thế giới thần thoại với những gốc cây cổ tích mà ở đó có những căn phòng được khoét lõm vào một cách ngộ nghĩnh những cây nấm thật to bên ngôi nhà rông cách điệu hay đôi hươu sao khổng lồ quấn quít mà một con đang nhẫn nha uống nước còn con kia đang cảnh giới cao đầu. Hai cây ổi dựng ngược là hình ảnh của hai ông bà đang cãi nhau đứng cạnh gốc cây si giữa vườn mang dáng dấp của những chú hươu non đang ngơ ngác tìm mẹ, những đứa trẻ thơ hồn nhiên hay những người lớn đăm chiêu, chiếc cầu bé nhỏ bắt ngang dòng suối cạn… một chút hoang tưởng hay một chút gì đó chông vênh của cuộc đời?…
-
Nhà Thờ Cam Ly
(http://www.dalat.gov.vn/dulichlamdong/html/graphics/NhaThoCamLy.gif)
Tham gia thác Cam Ly, du khách có thể ghé thăm ngôi nhà thờ của đồng bào dân tộc ở gần đó để biết thêm đôi điều về đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân bản địa nơi đây.
Nhà thờ Cam Ly là một kiến trúc độc đáo theo lối nhà rông cách điệu với hai mái cao thật dốc được lợp bằng 80.000 viên ngói thẳng, do linh mục Boutary, một thừa sai người Pháp sống lâu năm với đồng bào dân tộc và nhà thầu xây dựng Nguyễn Thành Hồ thực hiện. Công trình bắt đầu từ năm 1960 kéo dài đến năm 1968 mới hoàn thành.
Đến đây du khách hẳn ngạc nhiên khi thấy nhiều hình thú được vẽ trong nhà thờ. Thực ra mỗi loại thú đều có thể biểu trưng cho một loại tính cách, như cọp tượng trưng cho sức mạnh, nai tượng trưng sự đơn sơ trong sáng, phượng hoàng đất thích ở nơi cao ráo, trâu vừa là bạn cày cấy vừa là vật để tế Yàng (Trời)...các bức minh họa này, cùng với các hoa văn trang trí theo mô-típ bản địa lấy hình tam giac làm căn bản, đã kết hợp thành công giữa tư duy mộc mạc của đồng bào dân tộc với triết lý tôn giáo vừa nhân bản vừa sâu sắc, tạo thành một không gian vừa gần gũi vừa thân thiện, dễ dàng cho sự giao tiếp với vô biên...
Có thể nói nhà thờ Cam Ly đã thể hiện một cách tuyệt khéo tính “ hội nhập văn hóa”, một điều mà có nơi có lúc, các thành phần dân Chúa đang khắc khoải đi tìm (!)
-
Thung lũng Tình yêu cách trung tâm thành phố Đà Lạt chừng 5km về phía bắc. Thoạt đầu người Pháp gọi nơi này là Valley d'Amour; đến thời Bảo Đại làm Quốc trưởng được đổi thành thung lũng Hòa Bình. Năm 1953, khi Chủ tịch Hội đồng thị xã lúc bấy giờ là Nguyễn Vỹ đề xuất chuyển đổi tên gọi các danh từ tiếng Pháp sang tiếng Việt nhằm thể hiện tiếng độc lập của dân tộc thì khi đó cái tên "Thung lũng Tình yêu" được ra đời. Năm 1972, nhờ đắp một con đập lớn vắt ngang thung lũng đã tạo ra một hồ nước lớn có tên là hồ Ða Thiện. Vì có hồ mà thung lũng này càng thêm thơ mộng, tăng thêm sự hấp dẫn đối với du khách và nhất là đối với những lứa đôi ở khắp miền đất nước. Du khách có thể men theo những lối mòn hoặc leo cả trăm bậc cấp, đi qua những cổng hoa với màu sắc rực rỡ để lên đồi Vọng Cảnh. Từ đây Thung lũng Tình yêu hiện ra trong tầm mắt đẹp tựa như một bức tranh, sinh động với những cánh buồm chấp chới trên hồ.
-
Thác Pongour nằm trên địa bàn xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, cách thành phố Đà Lạt 45km và cách đường quốc lộ 20 khoảng 7km. Thác Pongour thuộc loại đẹp, hùng vĩ nhất Tây Nguyên với chiều cao chừng 30m, bề mặt dài hàng trăm mét và một thềm thác rộng hàng chục ha có thể tổ chức vui chơi cho hàng ngàn người một lúc. Theo truyền thuyết của đồng bào dân tộc thì thác gắn liền với câu chuyện về nàng Ka Nai - một Tù trưởng xinh đẹp đã có công xây dựng nên cuộc sống thịnh vượng của đồng bào K’ho. Tương truyền Ka Nai có 4 con tê giác và Pongour là dấu vết các con tê giác cắm sừng xuống đất.
-
Thác Đambri nằm cách trung tâm thị xã Bảo Lộc khoảng 18km. nằm giữa khung cảnh rừng nguyên sinh hoang sơ và hùng vĩ. Thác Đambri có độ cao khoảng 60m. Mùa mưa, nước thượng nguồn đổ về ầm ầm, đi xa vài kilômét còn nghe thấy tiếng. Xung quanh thác là một khu rừng hầu như vẫn còn giữ được nguyên vẹn nét đẹp hoang sơ chưa mấy người khám phá với diện tích gần 300ha cùng đủ loài chim. Nhiều cây cổ thụ quý hiếm như sao, kền kền, dổi... gốc to tầm vài ba vòng tay người ôm cũng có mặt ở đây. Khách muốn xuống chân thác có thể đi bằng hai đường: thang máy hoặc đường bộ. Nhưng hầu hết du khách đều chọn đường bộ men theo sườn núi để được thưởng ngoạn phong cảnh. Muốn sang bờ bên kia khách sẽ được một lần thử độ khéo léo và lòng dũng cảm khi chênh vênh đi trên chiếc cầu dây theo kiểu của đồng bào dân tộc ở địa phương vẫn làm. Cầu được bện từ những thứ dây leo rất sẵn ở rừng như song, mây, giang, lồ ô...
SimplePortal