Chùa Liên Phái (Hà Nội)Toạ lạc ở phố Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng. Theo tài liệu của Sở Văn hoá Thông tin Hà Nôi, chùa thuộc phái Lâm Tế do vị Lâm Giác Thượng Sĩ sáng lập từ năm Bính Ngọ, năm Bảo Thái thứ 7, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1726).
Lâm Giác Thượng Sĩ tên là Trịnh Thập, con trai của Tân Quang Vương, là cháu nội của chúa Trịnh Căn, cưới con gái thứ tư vua Lê Hy Tông. Ông đã sai đào ở gò cao sau nhà để xây bể cạn thì thấy trong lòng đất có cái ngó sen. Phò mã cho mình có duyên với đạo Phật nên đi tu, trở thành vị tổ đầu tiên của chùa, lúc đó gọi là chùa Liên Tông. Đến thời Tự Đức, chùa đổi tên thành Liên Phái để tránh phạm huý.
Tháp Diệu Quang ở bên sau cổng chùa, hình lục lăng cao 10 tầng, xây vào khoảng thế kỷ XIX, trong đó đặt hài cốt tổ Diệu Quang cùng 5 vị sư khác.
Chùa Linh Quang (Lâm Đồng)Toạ lạc tại số 133 đường Hai Bà Trưng, thuộc khu phố 4, thành phố Đà Lạt.
Chùa do Hoà thượng Thích Nhân Thứ tạo lập vào năm 1931, sau đó được các Hoà thượng trụ trì kế tiếp trùng tu, nhất là đợt trùng tu năm 1958 và năm 1972 dưới thời Hoà thượng Minh Cảnh trụ trì.
Chùa có lối kiến trúc cổ, mái chồng cong, trên mái hình long, lân, quy, phụng được gắn bằng những mảnh sành đủ màu sắc. Chính điện thờ đức phật Thích - ca, 2 bên là Bồ-tát Quán Thế Âm và Hộ Pháp.
Chùa được xem là ngôi Tổ đình đầu tiên của thành phố Đà Lạt.
Chùa Mía (Hà Tây)Toạ lạc ở làng Mía, xã Dương Lâm, huyện Ba Vì.
Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm Tự, được đại trùng tu vào năm Đức Long thứ 4 (1632) do bà Nguyễn Thị Dong (còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Diệu) , vợ chúa Trịnh đứng ra hưng công.
Chùa có 37 pho tượng lớn nhỏ, một nửa tạc bằng gỗ, một nửa tạc bằng gỗm, một nửa bằng đất luyện, sơn son thếp vàng. Tiêu biểu là Bát bộ Kim Cang bằng đất luyện ở toà thượng điện, là những điển hình nghệ thuật miêu tả dung mạo những con người giàu tinh thần thượng võ. Pho tượng tuyệt tác ở chùa là 'Quan Âm Tống Tử' với đường nét chạm khắc mềm mại, sinh động. Tượng Thuyết Sơn chùa Mía cũng là pho tượng có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn lưu giữ rất nhiều cổ vật, như đại hồng chung đúc năm 1743, khánh đồng đúc năm 1846, bia Bà Chúa Mía dựng năm 1632...
Một quang cảnh trong chùa Mía (Hà Tây). Chùa Một Cột (Hà Nội)Chùa Một Cột (hay Chùa Mật) còn có tên khác là Diên Hựu Tự hoặc Liên Hoa Đài. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo ở Việt Nam, nằm giữa lòng thủ đô Hà Nội.
Chùa Một Cột chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen. Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm toà sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu.
Chùa Một Cột đã được chọn làm một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, ngoài ra biểu tượng chùa Một Cột còn được thấy ở mặt sau đồng tiền kim loại 5000 đồng của Việt Nam. Tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phiên bản Chùa Một Cột.
Chùa Quán Sứ (Hà Nội)Toạ lạc ở số 73 phố Quán Sứ, quận Hoàn Kiếm.
Sách: 'Đại Nam Nhất Thống Chí' có ghi về chùa: 'Về đời nhà Lê (1428 - 1788), các nước Chiêm Thành, Vạn Tượng. Ai Lao thường cắt sứ giả sang cống nước ta. Nhà vua dựng một ngôi chùa cho sứ giả vào ở (vì những nước kể trên rất sùng đạo Phật) và đặt tên chùa là Quán Sứ để phân biệt với các chùa khác...'.
Chùa đã trải qua bao thay đổi. Tới năm 1934, Tổng hội phật giáo Bắc Kỳ ra đời, đặt trụ sở ở chùa. Chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của 2 kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do tổ Vĩnh Nghiêm duyệt vào năm 1941.
Điện phật chùa được bài trí trang nghiêm. Các pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy.
Lá cờ Phật giáo thế giới lần đầu tiên được treo tại Việt Nam ở chùa Quán Sứ nhân ngày lễ Phật Đản năm 1951, Phật lịch 2495.
Chùa nay là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trường cao cấp Phật học Việt Nam (cơ sở 1).
Chùa Quán Sứ (Hà Nội) Chùa Thiên Mụ (Thừa Thiên - Huế)Toạ lạc trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách thành phố Huế 5km về phía Tây.
Chùa Thiên Mụ là 'Quốc Tự Đệ Nhất' nên nhiều sư được phong tước hiệu. Chùa là ngôi danh lam cổ tự bậc nhất của đất Thần Kinh.
Chùa Trăm Gian (Hà Tây)Toạ lạc ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Hoài Đức, trên một quả đồi cao khoảng 50m, xung quanh có nhiều cây cổ thụ. Chùa có tên chữ là Quảng Nghiêm Tử, được lập từ thời Lý Cao Tông, niên hiệu Trịnh Phù thứ 10 (1185).
Chùa gọi là Trăm Gian vì có 100 gian theo cách tính 4 cột là 1 gian.
Ở sân chùa có gác chuông 2 tầng 8 mái được dựng vào năm Quý Dậu, niên hiệu Chính Hoà, đời Lê Hy Tông (1693), là một công trình có giá trị nghệ thuật cao.
Chùa còn giữ được nhiều di vật, đồ tế khí và tượng quý.
Đây là ngôi chùa đẹp về mặt kiến trúc và khung cảnh thiên nhiên, nên
ca dao đã có câu:
"Đình So, quân Giá, chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp, chưa tày Trăm Gian"
Chùa Trăm Gian (Hà Tây)Chùa Trấn Quốc (Hà Nội)Toạ lạc ở đường Thanh Niên, quận Ba Đình.
Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất nước ta, tương truyền có từ thời Lý Nam Đế (544 - 548), lúc ấy có tên là Khai Quốc Tự; đến đời Lê Thánh Tông (1440 - 1442), đổi là chùa An Quốc. Đến đời Lê Kính Tông (1600 - 1618), chùa được dời vào hòn đảo Cá Vàng ở giữa Hồ Tây, tức địa điểm hiện nay. Đời Lê Hy Tông (1680 - 1705), đổi tên là chùa Trấn Quốc.
Chùa còn giữ được 14 tấm bia, đáng kể là tấm bia của Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính dựng năm 1639 và tấm bia của Tiến sĩ Phạm Quý Thích dựng năm 1815.
Chùa có nhiều tượng đẹp, đáng chú ý là pho tượng đức Phật Thích-ca nhập Niết bàn bằng gỗ thếp vàng.
THAM KHẢO Đi chùa lễ Phật như thế nào cho đúng?
Chùa Vĩnh Nghiêm (TP.HCM)Tạo lạc ở số 339 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3.
Chùa được xây dựng từ năm 1964 và hoàn thành năm 1971, do kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng vẽ kiểu với sự cộng tác của kiến trúc sư Lê Tấn Chuyên và Cổ Văn Hậu.
Chùa có sân thượng sâu khoảng 10m, bên trái có tháp Quan Âm với 7 tầng mái, bên phải có tháp chuông xây cao trên sân thượng. Quả đại hồng chung do Giáo hội Phật giáo Nhật Bản hiến cúng. Bái điện là một toà nguy nga, bề rộng 22m, dài 35m, cao 15m.
Những công trình chạm khắc gỗ ở đây có bao lam tứ linh, bao lam cửu long, các tượng La-hán... Đặc biệt là các phù điều trên các hương án chạm các ngôi chùa danh tiếng trong nước và các nước Châu Á. Các nghệ nhân Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Văn Dụ, Bá Nhâm và tập thể thợ chạm những năm 1960 đã đạt những thành tựu đáng kể về mặt điêu khắc gỗ ở đây.
Bàn thờ Phật được thiết lập rất trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích-ca, 2 bên là Bồ-tát Phổ Hiến và Bồ-tát Văn-Thù.
Hiện nay, chùa đặt Trường cơ bản Phật học TP.HCM.
Chùa Xá Lợi (TP.HCM)Toạ lạc tại số 69, đường Bà Huyện Thanh Quan, quận 3.
Chùa được khởi công xây dựng vào ngày 5 tháng 8 năm 1956 và khánh thành vào các ngày 2, 3, 4 tháng 5 năm 1958.
Chánh điện ở lầu 1 dài 31m, rộng 15m, tôn tri đức Phật Thích-ca. Tượng này do Trường Mỹ nghệ Biên Hoà thực hiện năm 1958 bằng bột đá màu hồng.
Tháp chuông có 7 tầng, được khởi công xây dựng ngày 15/12/1980 và khánh thành ngày 23/12/1961. Đại hồng chung được đem lên tháp ngày 17/10/1961 dưới sự chững minh của cố Hoà thượng Thích Tịnh Khiết.
Trước đây, chùa là nơi đặt trụ sở Hội Phật học Việt Nam. Chùa được chọn làm nơi tổ chức Đạo hội thành lập Giáo hội phật giáo Việt Nam họp từ ngày 30/12/1963 đến ngày 01/01/1964. Chùa nguyên đặt trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Văn phòng II).
Ngày 31/8/1991, chùa là nơi tổ chức lễ tiếp nhận và phát hành 2 tập đầu tiên Đại Tràng Kinh Việt Nam.
Chùa Xá Lợi (TP. HCM) Chùa Tây Phương (Hà Nội)Là một ngôi chùa ở trên ngọn núi Tây Phương ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
Nơi đây tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay thợ tài hoa của các nghệ nhân làng mộc ngay trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng Sơn Làng nghề mộc lâu đời và nổi tiếng của xứ Đoài .
Trong chùa có 72 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng. Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp, cao chừng 3 m, trang nghiêm phúc hậu. Phần lớn các tượng này đều được coi là có niên đại cuối thế kỷ 18. Một số tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ 19.
Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh.
"...Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen...
...Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau..."