Hội du lịch Việt Nam

Tác giả Chủ đề:  Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh  (Đã xem 8420 lần)

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Re: Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« Trả lời #10 vào: Tháng Tám 12, 2008, 10:34:11 AM »
Làng Đương Xá và truyền thuyết về Bà Chúa Sành

Đã từ lâu dân gian xứ Kinh Bắc truyền tụng nhau về “Bà Chúa Sành” ở vùng ven cửa sông Ngũ Huyện Khê. Nằm bên đôi bờ con sông thiên cổ và chân dãy núi Quả Cảm là một vệt các làng cổ như Đặng Xá, Xuân Đồng, Xuân Viên, Xuân ái, Quả Cảm, Viêm Xá. Theo truyền thuyết Bà Chúa Sành, đó là những làng cổ, ngoài nghề nông ra còn có các nghề thủ công và còn là những làng Quan họ gốc nổi tiếng. Và truyền thuyết Bà Chúa Sành đã tìm thấy gốc tích từ làng Đương Xá.

Làng Đương Xá, xưa có tên Đặng Xá, nay là Đương Xá thuộc xã Vạn An, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Làng Đặng Xá nằm trên đỉnh các mỏm núi thấp như Càn Sơn, Chiềng Sơn, Ba Lăm và vắt ngang con sông cổ Ngũ Huyện Khê. Nơi đây vừa có núi, có sông, trên bến dưới thuyền nên từ ngàn xưa cư dân Việt cổ đã về đây sinh cơ lập nghiệp. Trải thăng trầm lịch sử, người dân nơi đây đã luôn đoàn kết bên nhau để tạo dựng nên làng xóm trù mật và văn hiến.

Đến ngày nay, dấu ấn về làng Đặng Xá trù mật, văn hiến vẫn còn đó ở tên đất, tên làng, di tích lịch sử, những thuần phong mỹ tục. Đặng Xá có quần thể di tích đình, đền, chùa từng được dân gian biết đến: Đình thờ thần “Cao Sơn đại vương” (thần Núi) còn phối thờ đức “Vua Bà”. Đền (nghè) thờ Vua Bà. Chùa Linh Quang nổi tiếng với hội hát Quan họ. Chùa Thanh Lãng còn bảo lưu nguyên công trình kiến trúc thời Nguyễn chạm khắc đẹp lộng lẫy. Đặc sắc hơn cả về văn hiến của Đặng Xá là truyền thuyết Bà Chúa Sành được nhiều thời truyền tụng. Mãi cho tới gần đây, truyền thuyết Bà Chúa Sành đã được soi sáng bằng việc các nhà khảo cổ học phát hiện và khai quật khu lò gốm cổ thuộc thôn Đương Xá. Khu lò gốm cổ nằm trên Bãi Lăm, ngay sát mép nước sông Ngũ Huyện Khê. Tại khu lò gốm này, các nhà khảo cổ học đã phát hiện thấy dấu tích của 9 lò gốm, trong đó 2 lò còn nguyên hình. Đó là loại lò “cóc” được khoét thẳng vào lòng núi đất, lấy tre, gỗ chống và lấy đất trát bên ngoài vòm lò. Các lò có chiều cao từ 4,6-5,0m, rộng từ 2,5-3,0m, cửa lò rộng 1,4m và có hai ống khói. Trong một số lò còn nguyên các chồng bát đĩa, vò, lọ, chậu, âu... Sản phẩm gốm Đương Xá là đồ dùng trong sinh hoạt như: âu, vò, lọ, chậu, bát, đĩa… với nhiều kiểu dáng khác nhau. Phần lớn là đồ sành, xương gốm dày, chưa có men. Những sản phẩm âu, vò, lọ có hoa văn hình sóng nước và văn thừng. Một số sản phẩm có men màu xám tro, vàng ngà. Qua kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học thì gốm Đương Xá có niên đại vào thế kỷ IX và kéo dài đến thế kỷ X (tương đương với thời Đinh-Lê) và là một trung tâm gốm cổ rất lớn của xứ Kinh Bắc. Có nhà nghiên cứu cho rằng dòng gốm Đương Xá có trước dòng gốm Phù Lãng và Thổ Hà và là tiền đề cho gốm thời Lý-Trần phát triển rực rỡ.

Nghề gốm cổ Đương Xá không còn nữa, nhưng di sản văn hóa vật chất và tinh thần còn để lại. Đó là dấu tích khu lò gốm cổ được xác định là một di tích khảo cổ học quý hiếm ở tỉnh Bắc Ninh và đặc biệt truyền thuyết Bà Chúa Sành chính là dấu ấn của nghề làm gốm Đương Xá. Song trải nhiều năm, truyền thuyết Bà Chúa Sành đã được phủ lên nhiều lớp văn hóa, nên được dân gian kể lại với nhiều nội dung khác nhau. Hơn nữa, Đặng Xá còn là một làng Quan họ gốc nổi tiếng, vì vậy mà có cả truyền thuyết kể rằng Bà Chúa Sành có giọng hát Quan họ ngọt ngào, say đắm làm say mê vua Cổ Loa v.v…

Với giá trị nhiều mặt của khu lò gốm cổ Đương Xá, năm 2000 Viện Khảo Cổ học, nhà khảo cổ học Nhật Bản Nishimura, Sở VHTT Bắc Ninh đã phối hợp với chính quyền địa phương xây dựng một nhà trưng bày bảo tàng tại chỗ để bảo vệ hai lò gốm cổ và giới thiệu khu lò gốm cổ Đương Xá.

Về với Đương Xá là về với vùng đất văn hóa dân gian đầy ắp những huyền tích, truyền thuyết, giai thoại kể về con người nơi đây đã từng khai ấp lập làng, làm ruộng, làm nghề thủ công, đánh giặc giữ nước và là một làng Quan họ gốc nổi tiếng. Truyền thuyết Bà Chúa Sành là kết tinh ngàn năm cả lớp văn hóa làng nghề và lớp văn hóa Quan họ và đây chính là nét văn hiến tiêu biểu của địa phương và xứ Kinh Bắc-Bắc Ninh.
 

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Re: Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« Trả lời #9 vào: Tháng Tám 12, 2008, 10:29:17 AM »
Đình làng Trà Xuyên và lễ hội truyền thống

Đình Trà Xuyên xã Khúc Xuyên (thành phố Bắc Ninh) là công trình văn hóa tín ngưỡng có quy mô khá bề thế trong số những ngôi đình nổi tiếng của vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc. Đây là một trong những di tích tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật của thời Lê Trung Hưng còn bảo lưu khá nguyên vẹn đến nay ở tỉnh Bắc Ninh.

Đình Trà Xuyên được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII) với quy mô lớn. Hiện trên câu đầu gian giữa của tòa đại đình còn nguyên dòng chữ Hán cho biết chính xác năm khởi dựng đình “Hoàng triều Cảnh Hưng nhị thập tam niên” (1762). Đến thời Nguyễn đình được trùng tu tôn tạo. Mặc dù trải thăng trầm lịch sử, đình Trà Xuyên vẫn còn đó với dáng vẻ cổ kính, đồ sộ, các góc đao cong vút uốn lượn bồng bềnh dưới những lùm cây cổ thụ tựa một bức tranh tuyệt đẹp giữa làng quê trù phú và văn hiến. Đình gồm 2 tòa mặt quay hướng đông bắc: tiền tế hình chữ nhất gồm 3 gian 2 dĩ; đại đình có kết cấu hình chữ đinh gồm tiền đình 3 gian chái và hậu cung 3 gian. Bộ khung gỗ lim chắc khỏe, chạm khắc đề tài “tứ linh”, “tứ quý” tinh xảo nghệ thuật. Giá trị nổi bật của kiến trúc đình Trà Xuyên chính là ở phần chạm khắc trang trí trên các bức cốn, đầu dư, con chồng, đầu bẩy, các vì, câu đầu và được tập trung chủ yếu ở tòa đại đình. Các nghệ nhân đã thể hiện sự tài khéo của mình bằng nghệ thuật chạm trổ các đề tài tứ linh, tứ quý tinh xảo nghệ thuật. Ngoài những đề tài về tứ linh, tứ quý, còn có cả hình ảnh các tiên nữ cưỡi rồng, hình voi, ngựa, chim, sóc… tất cả hòa quyện vào nhau đã tạo nên một bức tranh sinh động mang tính sáng tạo cao của người nghệ sĩ dân gian xưa kia.

Cùng với giá trị kiến trúc, điêu khắc, đình Trà Xuyên bảo lưu được nhiều tài liệu cổ vật quý của hai thời Lê, Nguyễn. Đó là hệ thống hoành phi, câu đối, ngai thờ, bài vị, hương án… Đặc biệt đình còn bảo lưu được bản thần tích cho biết khá rõ về lai lịch, công trạng của Thành hoàng làng là Thánh Tam Giang (Trương Hát) và 12 đạo sắc có các niên đại như sau: Gia Long 9 (1810), Minh Mệnh 2 (1821), Thiệu Trị 4 (1844), Thiệu Trị 8 (1848), Tự Đức 3 (1850), 2 đạo Tự Đức 33 (1880), Đồng Khánh 2 (1886), Duy Tân 3 (1909), Duy Tân 5 (1911), Khải Định 2 (1917), Khải Định 9 (1924).

Giá trị của đình Trà Xuyên còn được thể hiện ở lễ hội truyền thống với nhiều tục trò độc đáo. Xưa kia theo tục lệ đình Trà Xuyên được mở hội từ mồng 5 đến 13 tháng giêng (âm lịch). Để lo công việc đình đám, từ trong năm làng đã cắt cử công việc cho các giáp. Trà Xuyên xưa có 6 giáp, mỗi giáp được giao nuôi một con lợn tế. Việc nuôi lợn tế được giáp cử từ đầu năm trước, ai được phân công nuôi lợn là niềm vinh hạnh lớn và họ cho rằng cả năm đó sẽ gặp nhiều may mắn. Đến ngày 13, các giáp tắm rửa lợn tế sạch sẽ rồi rước ra nghè, khi đã đông đủ cả 6 giáp thì cùng nhau rước ra đình để tế Thánh. Trong những ngày lễ hội sau phần tế lễ là phần hội với nhiều tục trò dân gian vui chơi giải trí như tục đuổi chim cuốc, múa rối, hát Quan họ… đã thu hút đông đảo nhân dân địa phương vào những sinh hoạt văn hóa văn nghệ vui tươi lành mạnh sau những ngày lao động vất vả.

Đình Trà Xuyên với những giá trị tiêu biểu về kiến trúc điêu khắc, những di vật cổ quý và phong tục tập quán độc đáo trong ngày lễ hội là di sản văn hóa của quê hương đất nước.
 

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Re: Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« Trả lời #8 vào: Tháng Tám 12, 2008, 10:24:03 AM »
Đình, chùa Thượng Đồng và truyền thuyết về bà chúa Lẫm

Đã từ lâu trong dân gian xứ Kinh Bắc truyền tụng nhau truyền thuyết về các “Bà Chúa”, “Vua Bà” vùng ven cửa sông Ngũ Huyện Khê. Vùng đất này gồm một vệt làng cổ thuộc địa bàn hai xã Vạn An, Hòa Long (thành phố Bắc Ninh); trong đó có làng Thượng Đồng nổi tiếng với truyền thuyết bà “Chúa Lẫm”.

Làng Thượng Đồng có tên nôm là làng Lẫm thuộc xã Vạn An vốn là một làng cổ nằm trên quả núi thấp cạnh cửa sông Ngũ Huyện Khê. Quanh làng còn những dộc nước, ao, hồ, đầm cổ, những xứ đồng với tên cổ như: đồng Thóc, đồng Gạo, đồng Quan, đồng Phát... càng làm tăng thêm vẻ huyền bí của truyền thuyết bà Chúa Lẫm.

Thượng Đồng có quần thể di tích đình, chùa cổ kính: Đình Thượng Đồng vốn được xây dựng từ lâu đời với quy mô lớn, chạm khắc đẹp nhưng bị phá trong tiêu thổ kháng chiến chống Pháp; những năm gần đây dân làng khôi phục lại theo kiểu thức truyền thống. Đó là tòa đại đình bốn mái đao cong duyên dáng và còn bảo lưu được nguyên thần tích, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối cho biết về người được thờ là “Cao Sơn đại vương” (Thần Núi) và “Đức Vua Bà” (dân gian gọi là bà Chúa Lẫm). Còn chùa Thượng Đồng có tên chữ là “Nguyên Thuyền tự” cũng vốn được xây dựng từ lâu đời, nhưng đến thời vua Bảo Đại năm thứ 4 (1929) được xây dựng lại với quy mô lớn theo kiểu “nội công ngoại quốc” để phía trước thờ Thần, phía sau thờ Phật và còn giữ nguyên được kiến trúc điêu khắc đến ngày nay.

Chùa Thượng Đồng không những thờ Phật mà còn thờ Thần. Tòa tiền đường chính là nơi đặt hương án, ngai, bài vị, siêu đao bát bửu thờ Thần; tại đây còn đôi câu đối cổ phản ánh về việc thờ Thần, Phật như sau:

"Phật tự viên cường linh mãn tọa
Thần từ y phả sắc hoà ban”.


Việc thờ Đức Vua Bà còn được thể hiện ở lễ hội truyền thống: hàng năm cứ đến ngày 10 tháng giêng, dân làng lại tổ chức giỗ Vua Bà và đến ngày mồng 10 tháng 8 thì mở hội đình làng. Xưa kia, để mở hội đình đám, ngay từ mồng 9 làng tổ chức rước sắc phong từ ban thờ sắc ở chùa về đình để tế lễ. Ngày mồng 10 chính hội, hai ông Quan đám và các giáp trong làng phải rước cỗ chay ra đình để tế thần. Cỗ chay là các loại bánh, hoa quả của địa phương như oản, chè kho, bánh mật, hồng, chuối... Sau phần lễ là phần hội với nhiều trò dân gian vui chơi giải trí như tuồng, chèo, ảo đào, vật, chọi gà, cờ... và đặc biệt là tục hát Quan họ.

Giá trị nổi bật của đình, chùa Thượng Đồng là còn bảo lưu được hệ thống cổ vật như thần tích, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối. Các đạo sắc phong của các triều vua phong tặng người được thờ có các niên đại như sau: Cảnh Hưng thứ 4 (1743), Cảnh Hưng 44 (1783), Tự Đức 3 (1850), 2 đạo Thiệu Trị 4 (1844), Minh Mệnh 2 (1821), Đồng Khánh 2 (1886), Duy Tân 3 (1909), Khải Định 6 (1911). Đặc biệt là tấm bia đá của đình Thượng Đồng có tên là “Thượng đẳng tối linh” được dựng khắc năm Tự Đức 3 (1850) cho biết lai lịch bà Chúa Lẫm và có thể tóm tắt như sau: Đức Vua Bà là người thôn Quả Cảm, sinh vào năm Thiên ứng Chính Bình thứ 4 (1235), dáng vẻ không trần tục, thái độ thật khác thường. Cha mẹ là người hiền lành nhân hậu, làm nghề nông và có thêm nghề buôn bán. Năm ông bà ngoài 30 tuổi mà chưa có con, nên đi cầu tự ở chùa và được mộng Quan Âm cho một đóa mây trắng, sau đó sinh ra Đức Bà. Từ nhỏ đến lớn, Đức Bà luôn là người hiền lành nhã nhặn và tài sắc hơn người. Vào đời vua Trần Anh Tông, một hôm theo mẹ đến Tràng An bán hàng. Giữa đường bỗng gặp xa giá của nhà vua đi qua. Hai mẹ con sợ hãi liền lấp vào một bụi cây ven đường. Bỗng viên quan hầu cận vua đến bên bụi cây nói rằng: “Nơi ấy hiện lên một đóa mây trắng, mắt trời đã soi báo, người nào trốn ở đây phải mau mau ra nhận lệnh”. Mẹ con bà vội sửa áo quần để ra mắt nhà vua. Nhà vua thấy trước mặt là một cô gái đẹp tuyệt trần, liền xin mẹ già cho nàng về kinh, xuống chiếu cho mẹ hiền về quê phụng dưỡng. Đức Bà được nhà vua vô cùng yêu mến, cha mẹ được ban ân nhiều. Hầu hạ vua được 5 năm thì Đức Bà có mang. Nhà vua ban sắc là Hoàng phi đệ tam cung, ban cho 72 trang ấp làm bổng lộc riêng. Đức Bà đang mang thai thì bỗng mang bệnh nặng rồi mất. Nhà vua vô cùng thương tiếc, đích thân làm lễ và truy tặng Hoàng hậu, lệnh cho 72 trang ấp của Đức Bà phải thờ làm Phúc thần và cho quan trong triều hộ tống thi hài về an táng xây lăng tại địa đầu núi Hoàng Nghênh thuộc làng Quả Cảm (hiện nay lăng mộ vẫn còn).

Căn cứ theo văn bia đình làng Thượng Đồng thì 72 trang, ấp (làng, xã) trong vùng cửa sông Ngũ Huyện Khê phải thờ Đức Vua Bà làm Phúc Thần, trong đó có thôn Thượng Đồng. Mặt khác, tại thôn Thượng Đồng còn có truyền thuyết kể rằng: Xưa kia bởi Thượng Đồng có núi và các dộc nước làm đường giao thông là nơi tập trung kho lương của Đức Vua Bà, các trang, ấp trong vùng là đất thực ấp phải tập trung lương thực về Thượng Đồng; cho nên núi được mang tên là “núi Lẫm”, làng mang tên là “làng Lẫm”, các cánh đồng xung quanh mang tên là đồng Thóc, đồng Gạo... Chính vì vậy, Thượng Đồng là nơi thờ phụng Đức Vua Bà được các triều vua ban sắc phong và được lập bia đá để ghi khắc lại sự tích người được thờ, còn dân gian truyền tụng nhau Thượng Đồng là nơi thờ Bà Chúa Lẫm.
 

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Re: Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« Trả lời #7 vào: Tháng Tám 12, 2008, 10:19:39 AM »
Lăng Đàm Viết Kính và những di vật quý

Xã Hương Mạc, huyện Từ Sơn từng nổi tiếng trong dân gian với truyền thống khoa bảng và hiếu học. Nơi đây là quê hương của những danh nhân tiêu biểu, trong đó có võ tướng Đàm Viết Kính-người có nhiều công lao với quê hương, đất nước. Ông đã được nhân dân địa phương tôn làm Hậu thần và xây lăng, nhà thờ để thờ phụng. Hiện nay nhà thờ và khu lăng Đàm Viết Kính ở thôn Kim Bảng xã Hương Mạc vẫn được con cháu dòng họ Đàm và nhân dân địa phương gìn giữ. Tại đây bảo lưu nhiều di vật quý, đặc biệt là hệ thống tượng đá mang phong cách nghệ thuật thời Lê.

Nhà thờ và khu lăng Đàm Viết Kính nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng ở giữa làng Kim Bảng, mặt quay hướng đông nam. Toàn bộ khu lăng được xây dựng theo một trục chính và chia thành ba lớp. Trên cùng là nhà thờ, ở giữa là khu mộ, tiếp đến là khu “sinh từ” (khu vực đặt những tượng đá ở trước phần mộ). Song giá trị nổi bật của nhà thờ và khu lăng chính là hệ thống cổ vật được lưu giữ tại đây. Đó là hệ thống tượng đá được đặt đăng đối tại khu sinh từ: trên cùng nằm ngay sát phần một là 2 tượng vũ sỹ cao 85cm được tạc theo lối tả thực, hai tay cầm “gậy” để trước bụng trong tư thế đứng nghiêm trang; tiếp là 2 voi đá cao 73cm, dài 87cm quỳ phủ phục; sau cùng là 4 chó đá trong tư thế ngồi, hai chân chống phía trước, cổ đeo vòng có quả chuông nhỏ. Những hiện vật này đều là tác phẩm điêu khắc nghệ thuật đặc sắc của thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 18) còn bảo lưu được đến nay.

Ngoài những di vật trên, tại nhà thờ và khu lăng còn bảo lưu được nhiều cổ vật khác như: bàn thờ đá, bài vị bằng đá, cây hương đá thời Lê cao 1,6m, bát hương đá thời Nguyễn, 2 đạo sắc năm Bảo Thái 2 (1721) và Cảnh Hưng 4 (1745), bảng gỗ có niên đại năm Thành Thái 17 (1905) ghi lại những ngày tiết lệ trong năm… Đặc biệt là bia đá hai mặt có tên “Linh Huệ từ”, niên đại Cảnh Hưng thứ 4 (1743) do Tiến sỹ Nguyễn Thực người Vân Điềm soạn. Nội dung bia như một bản gia phả của dòng họ Đàm và ghi lại việc xây dựng khu lăng cũng như các ngày tiết lệ trong năm. Nội dung tấm bia đá có thể tóm tắt như sau: Đàm Viết Kính người thôn Kim Bảng, xã Mai Động, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (nay là xã Hương Mạc huyện Từ Sơn), tự là Như Liêu, tước Tại thọ hầu, Tham đốc phủ tham đốc; Thị nội giám tư lễ; Trấn Tiền đội, đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, làm quan dưới triều Vua Lê chúa Trịnh. Vợ là Quách Thị Thảo, hiệu là Từ Thuận được tấn phong Chánh phu nhân. Ông bà không những là người có nhiều công lao với triều đình mà còn là người nhân hậu phúc đức, lấy nhân nghĩa để đối đãi với xóm làng; chính vì vậy đã được nhân dân hai xã (Thiết úng và Hương Mạc) tôn bầu làm hậu thần để “Tuế thời các tiết phụng thờ”. Việc tôn thờ này đã được sự ghi nhận của triều đình bằng việc ban tặng sắc phong vào năm 1721 và 1743.

Từ khi khởi dựng cho đến nay khu lăng vẫn được nhân dân và con cháu dòng họ Đàm Đình trông nom gìn giữ, hàng ngày đều có người đèn hương chu đáo. Những ngày tiết lệ trong năm con cháu trong dòng họ lại tề tựu đông đủ để tưởng nhớ đến các bậc tiên tổ, ôn lại truyền thống tốt đẹp của cha ông, góp phần giáo dục truyền thống hiếu học, khoa bảng, truyền thống yêu nước cho các thế hệ trẻ noi gương. Năm 2006, Nhà thờ và khu lăng của dòng họ Đàm được UBND công nhận là di sản lịch sử văn hoá.
 

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Re: Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« Trả lời #6 vào: Tháng Tám 12, 2008, 10:15:08 AM »
Đình chùa Khúc Toại và những cổ vật quý hiếm

Thôn Khúc Toại còn có tên nôm “làng Chọi” thuộc xã Khúc Xuyên, thành phố Bắc Ninh, vốn là một làng cổ nằm vắt ngang con sông cổ Ngũ Huyện Khê.

Nằm giữa cái nôi lịch sử văn hóa, Khúc Toại từ lâu đã nổi tiếng trong dân gian là làng nghề mộc gia dụng với câu “Mã Đông Hồ, đồ làng Chọi”. Đó còn là làng quan họ gốc với những liền anh, liền chị nổi tiếng tài hoa, thanh lịch… Song bề dày lịch sử, văn hiến của Khúc Toại đã được kết tinh và tỏa sáng ở quần thể di tích đình, chùa cổ kính của làng. Đình chùa Khúc Toại nằm liền kề nhau thành một quần thể di tích cổ kính thâm nghiêm giữa làng, mặt hướng phía đông nam: Phía trước là ao hồ và cánh đồng rộng lớn bốn mùa lúa màu tươi tốt. Phía sau lưng là cầu “Chọi”, chợ “Chọi” từng đi vào tiềm thức dân gian xứ Kinh Bắc: Cầu Chọi theo văn bia của đình làng thì được xây dựng với quy mô lớn vào thời Lê Trung Hưng theo kiểu “thượng gia hạ kiều” để nối các xóm của làng với nhau thêm trù mật, đầm ấm. Cây cầu này mang giá trị lớn về kiến trúc nghệ thuật, nên đã được Viện Viễn Đông Bác Cổ chụp ảnh để lưu giữ, nghiên cứu. Chợ Chọi từng nổi tiếng trong dân gian với ngày hội chợ mồng 8 tháng Giêng có nhiều hàng hóa và tục “ăn cuốn”.

Đình chùa Khúc Toại không những có cảnh quan đẹp, mà còn nổi bật với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật. Chùa Khúc Toại có tên chữ là “Diên Phúc tự”, theo văn bia từng là danh lam cổ tích của xứ Kinh Bắc. Còn theo như truyền thuyết, địa phương được Tiến sĩ Nguyễn Thượng Nghiêm người làng cho xây dựng với quy mô lớn vào thời Lê; vì vậy dân làng đã thờ ông làm Hậu Phật ở chùa. Ngôi chùa Diên Phúc còn bảo lưu được nhiều cổ vật quí hiếm: Hệ thống tượng Phật thời Lê, Nguyễn; tượng Tiến sĩ Nguyễn Thượng Nghiêm; bia đá, khánh đá, cây hương đá; đặc biệt là chuông đồng ghi tên chùa với niên đại “Phúc Thái 6” (1648) và đây là một trong những quả chuông cổ nhất của nước ta. Trên thân chuông ghi khắc chữ Hán bài Tự kể về những danh lam cổ tích của nước ta như: Tháp Bảo Thiên, chùa Quỳnh Lâm, tháp Phổ Minh, chùa Phả Lại và những báu vật thuộc “An Nam tứ khí” của những danh lam cổ tích trên; còn ghi khắc bài Minh ca ngợi quê hương Khúc Toại trù phú và văn hiến.

Đình Khúc Toại cũng được xây dựng từ lâu đời, nhưng đến thời Nguyễn được trùng tu và mở rộng với qui mô lớn. Trên câu đầu của tòa Tiền tế còn nguyên dòng chữ Hán ghi khắc năm trùng tu “Duy Tân Quý Sửu niên” (1913). Đây là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo và tiêu biểu của thời Nguyễn còn bảo lưu đến ngày nay. Tòa Đại đình có bình đồ kiến trúc kiểu “tường chữ Đinh mái chữ Công” với các lớp mái đao cong uốn lượn duyên dáng bên bến nước, dòng sông. Bộ khung đình được dựng bằng gỗ lim trang trí lộng lẫy và nghệ thuật chạm khắc được tập trung ở tòa Tiền tế. Các nghệ nhân xưa của làng nghề Khúc Toại bằng nhiều thủ tháp nghệ thuật: Chạm nổi, chạm lộng, chạm thủng, chạm kênh bong đã thể hiện tài năng sáng tạo của mình ở ngôi đình. Trên các bộ phận kiến trúc như: vì nóc, con rường, cốn, đầu dư, kẻ, bảy đều được chạm khắc trang trí. Tòa tiền tế có 2 vì nóc gian giữa kết cấu “chồng rường” và đầu các con rường đều được chạm nổi hoa lá với nét chạm phóng khoáng. Các gian bên có vì nóc kiểu “ván mê” được chạm nổi đầu rồng mặt hổ phù với mặt lồi to, mũi nở, râu dài, bờm và tóc bay dựng ngược dữ tợn. Hình tượng rồng mặt hổ phù nhằm đề cao vẻ uy nghiêm linh thiêng của ngôi đình. Các đầu dư chạm đầu rồng ngậm ngọc với nét chạm điêu luyện. Gian giữa có hai kẻ phía trước được tạo hình là hai con rồng lớn với đầy đủ các chi tiết đầu, thân, đuôi; nhưng lớp vẩy trên mình rồng lại làm những cụm hoa lá nở rộ. Hai bảy hiên gian giữa chạm nổi hình rồng bán thân đang cuộn mình trong những đám mây chầu vào đình. Còn các đầu bảy khác chạm nổi rồng lá. Đặc biệt bức cửa võng gian giữa được chạm với nhiều đề tài của đạo nho, đạo lão, đạo giáo như: Lưỡng long chầu nguyệt, long giáng, phượng vũ, long mã đồ thư, bát bửu… Nghệ thuật chạm khắc của đình Khúc Toại không những thể hiện tài năng của các nghệ nhân xưa, mà còn gửi gắm những mơ ước về một xã hội hưng thịnh, no ấm. Cùng với giá trị kiến trúc điêu khắc, đình Khúc Toại còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như 20 đạo sắc phong của các triều vua cho người được thờ là Thánh “Tam Giang”, các thánh “Quý Minh”, “Trung Huệ”, “Đống Vinh” (đạo có niên đại sớm nhất là 1730, đạo có niên đại muộn nhất là 1924), 3 bia đá có niên đại Bảo Đại 3 (1928) cho biết về việc trùng tu đình vào thời Nguyễn; nhiều đồ thờ tự cổ quý như hương án, sập thờ, kiệu thờ, siêu đao, bát bửu, kiệu bát cống là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc của thời Lê, Nguyễn.

Bên cạnh những giá trị nổi bật về kiến trúc điêu khắc và cổ vật, đình chùa Khúc Toại còn có giá trị lớn về lễ hội truyền thống. Hàng năm hội chùa ngày 14 tháng Giêng và hội đình ngày 6 tháng Giêng là những hội “quan họ” nổi tiếng của xứ Kinh Bắc. Quần thể di tích đình chùa Khúc Toại với những giá trị lớn nhiều mặt về kiến trúc điêu khắc, cổ vật, lễ hội không những là nét văn hiến đặc sắc của một làng nghề từng nổi tiếng trong dân gian, mà đã góp phần làm nên nét văn hiến tiêu biểu của quê hương Bắc Ninh.
 

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Re: Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« Trả lời #5 vào: Tháng Tám 12, 2008, 10:09:00 AM »
Nơi yên nghỉ của các vua Lý



Bên cạnh khu Di tích Lịch sử-Văn hóa Đền Đô, xã Đình Bảng (Từ Sơn) còn có một quần thể di tích nổi tiếng với bề dày hàng nghìn năm lịch sử, đó là Thọ Lăng Thiên Đức, nơi yên nghỉ của các nhà vua Lý.

Thọ Lăng Thiên Đức nằm trên đất thuộc thôn Cao Lâm, có rừng Báng cổ xưa, nay chỉ còn dấu tích. Tháng 2 năm Canh Tuất (1010), Lý Thái Tổ từ Hoa Lư về thăm quê, đã “Đo mười dặm đất, chọn làm Cấm Địa Sơn Lăng”. Thọ Lăng Thiên Đức có 8 lăng, là nơi yên nghỉ của 8 vị vua triều Lý. Ngoài ra còn có lăng Lý Thánh Mẫu, lăng Nguyên Phi ỷ Lan, lăng Lý Chiêu Hoàng.

Khu Sơn Lăng Cấm Địa có 8 đường cao và 8 dọc nước, từ trên cao nhìn xuống, tựa như những đầu rồng, còn được gọi là Bát Long, Bát Thủ, cùng chầu vào Lăng Phát Tích, nơi an nghỉ của Lý Thánh Mẫu Minh Đức Hoàng Thái Hậu Phạm Thị. Toàn bộ khu lăng rộng 180m, dài 1.400m, hình bầu dục. Trước khi băng hà, Lý Thái Tổ đã dặn các quan, đại ý: Lăng không cần xây bằng gạch, đá, chỉ đắp bằng đất để đỡ tốn tiền bạc của nhân dân. Quân lính và thường dân nếu có thương nhớ vua thì chỉ việc lấy đất đắp lên, càng cao càng quý. Khi lăng cao, cỏ mọc nhiều thì trâu bò sẽ có thức ăn trở nên béo khoẻ, để cày ruộng cho nhân dân. Đây cũng là khu vui chơi của trẻ mục đồng, càng gần với lăng vua, các em càng nhớ tới công ơn của các vị tiền nhân, sẽ trở thành người tốt… theo lời người xưa truyền lại, lăng chỉ xây miếu, sau đó phủ đất lên trên.

Đầu thế kỷ 18, nhà Lê cho đắp lại toàn bộ lăng mộ vua Lý, mỗi lăng cao từ 15-20m so với mặt ruộng. Ngoài lăng Lý Thái Tổ hình lòng chảo (Còn gọi là Lăng Lòng Chảo), các lăng khác đều xây hình chóp nón. Trải qua thời gian năm tháng, cây cỏ trên lăng đã lên xanh tươi tốt. Ruộng đất thuộc khu Sơn Lăng, đến thời nhà Nguyễn còn ghi trong sách “Đại Nam nhất thống chí”: “… Khu đất rộng chừng trăm mẫu, cây cổ thụ um tùm, là cấm địa và là thang mộc ấp của nhà Lý. Ruộng Sơn Lăng được coi là ruộng công vĩnh viễn, giao cho dân xã sở tại chia nhau cầy cấy, nộp một phần hoa lợi để chi phí vào việc thờ phụng các vua nhà Lý, sửa sang và bảo vệ lăng tẩm. Dân Đình Bảng cho đến thời Lê vẫn được coi là dân thủ lệ, chuyên việc thờ phụng các vị vua nhà Lý, được miễn đi lính và lao dịch…”. Rừng thuộc khu Thọ Lăng Thiên Đức đã được khai phá làm ruộng sản xuất từ đầu thế kỷ trước, nhưng vẫn dành ra những lối đi rộng để vào lăng, tiện cho việc bảo vệ và thăm viếng.
 

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Re: Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« Trả lời #4 vào: Tháng Tám 12, 2008, 10:04:01 AM »
Thành cổ Bắc Ninh “Viên ngọc quý” cần được gìn giữ

Thành cổ Bắc Ninh-công trình kiến trúc nghệ thuật quân sự tiêu biểu của tỉnh Bắc Ninh, được xây dựng từ năm 1805 thời vua Gia Long triều Nguyễn, trên địa phận các làng Đỗ Xá, huyện Võ Giàng, Hòa Đình (Tiên Du) và làng Yên Xá, huyện Yên Phong (nay thuộc phường Vệ An, thành phố Bắc Ninh). Gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa của cư dân nơi đây, Thành Bắc Ninh từng đi vào câu ca Quan họ với niềm tự hào “Trong sáu tỉnh người đã chưa tỏ, ngoại năm thành chỉ có Bắc Ninh”.

Theo Giáo sư, Tiến sỹ Đỗ Văn Ninh, tác giả sách “Thành cổ Việt Nam”: Thành Bắc Ninh là ngôi Thành cổ đầu tiên của Việt Nam được xây dựng theo đồ án hình lục giác. Về kiến trúc, Thành Bắc Ninh là một trong bốn tòa thành đẹp nhất vùng Bắc Kỳ thời bấy giờ. Thành có diện tích 545.000m2, tường cao 9 thước đắp bằng đất đá, sau thay bằng gạch đá, chu vi dài hơn 532 trượng, chung quanh có hào nước sâu bao bọc. Trong Thành có sắp xếp các bộ phận gồm Doanh trấn thủ, Đài bác vọng, kho thuốc súng, nhà Công đồng. Thời nhà Nguyễn, Thành Bắc Ninh là trung tâm bộ máy cai quản hành chính hai tỉnh Bắc Ninh-Thái Nguyên. Thời thuộc Pháp, xác định rõ vị trí tầm quan trọng của tòa Thành này, ngày 16-5-1925 toàn quyền Đông Dương đã ký quyết định xếp hạng di tích Thành Bắc Ninh là công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu.

Sau cách mạng tháng 8-1945, nhiều lần lãnh đạo Đảng, Nhà nước về thăm, nói chuyện với cán bộ nhân dân tại Thành Bắc Ninh. Năm 1980, Thành cổ được UBND tỉnh Hà Bắc xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu theo Quy định số 144/QĐ-UB ngày 15-3-1980. Ngày 24-10-1981, UBND tỉnh Hà Bắc có Quy định số 574/QĐ-UB về việc bảo vệ di tích Thành cổ Bắc Ninh. Theo Quy định này khu vực nội thành và dãy hào bao quanh phía ngoài là bất khả xâm phạm. Vùng bao quanh là tường thành và hồ thành không được tùy tiện san lấp, đào bới làm tổn hại đến di tích. (Điều 2, 3 Quy định số 574 nêu trên). UBND tỉnh Hà Bắc giao việc bảo vệ Thành cổ Bắc Ninh cho UBND thị xã Bắc Ninh (nay là thành phố Bắc Ninh) đảm nhận.

Tuy nhiên Thành cổ Bắc Ninh đến nay vẫn chưa được tu bổ, tôn tạo xứng tầm với giá trị lịch sử văn hóa. Dấu tích còn lại của Thành Bắc Ninh là ba cổng thành, một phần bờ thành và dãy hào sâu, 2 khẩu súng thần công, trong đó nổi bật là cổng tiền với đài gác vọng, cột cờ cao gần 20 mét. Đầu tháng 1-2003 UBND thành phố Bắc Ninh và Sở Văn hóa-Thông tin tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học “Thành cổ Bắc Ninh-giá trị lịch sử văn hóa”nhằm tìm ra những giải pháp bảo tồn Thành cổ. Tham dự có đại diện các nhà nghiên cứu khoa học của Viện Hán nôm, Viện Lịch sử quân sự, Đại học Quốc gia Hà Nội, Cục Di sản văn hóa và Giáo sư Trần Quốc Vượng. Hội thảo đã khẳng định: Thành cổ Bắc Ninh là một di tích lịch sử đặc biệt có giá trị nhiều mặt-một di sản văn hóa quý báu của nhân dân thành phố Bắc Ninh cần được bảo vệ, tôn tạo và phát huy giá trị. Đồng thời đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lập phương án bảo vệ Thành cổ Bắc Ninh. Ngày 29-3-2005 HĐND thành phố Bắc Ninh đã có Nghị quyết số 23/NQ-HĐND về việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử Thành cổ Bắc Ninh. Đề nghị Bộ Quốc phòng, UBND tỉnh tạo điều kiện để cơ quan chuyên môn tiến hành nghiên cứu, lập hồ sơ pháp lý trình Nhà nước xếp hạng Thành cổ Bắc Ninh là di tích cấp Quốc gia.

Trong định hướng phát triển du lịch địa phương, Thành cổ Bắc Ninh sẽ trở thành điểm thăm quan du lịch giàu tiềm năng, nơi diễn ra nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần của nhân dân.
 

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Re: Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« Trả lời #3 vào: Tháng Tám 12, 2008, 09:58:59 AM »
Chùa Cổ Pháp thôn Đại Đình

Theo sử sách, chùa Cổ Pháp, thôn Đại Đình (thôn Nuốn), xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, được xây dựng từ thế kỷ VIII và đã trùng tu nhiều lần. Bằng chứng của sự trùng tu đã được khắc trên chuông đồng của chùa như sau: “Chùa Cổ Pháp còn có tên là chùa Tương Giang, từ xưa đã có chuông. Sau sự biến Tây Sơn, chuông bị thất lạc. Mùa xuân năm Nhâm Dần (1842) những người hảo tâm trong làng cùng với khách thập phương góp tiền của đúc chuông cao hai thước năm tấc, rộng một thước bốn tấc, hoàn thành ngày 25 tháng 2...”.

Năm 1952 chiến tranh hủy hoại ngôi chùa và nhiều cây tháp cổ, nhân dân phải chuyển tượng Phật vào giữa làng để thờ cúng.

Mùa xuân năm Mậu Dần (1998) Thượng tọa Thích Thông Giác thuộc phái Trúc Lâm cùng nhân dân thôn Đại Đình khởi công xây dựng lại chùa. Biết tin này, ngày 15 tháng 6 năm 1998, Hòa thượng Thích Thanh Từ, Viện trưởng thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt - Phó Chủ tịch Hội đồng chứng minh Trung ương giáo hội Phật giáo Việt Nam đã gửi thư động viên các phật tử và nhân dân thôn Đại Đình. Trong thư Hòa thượng còn viết các câu thơ, câu kệ của các vị thiền sư tiền bối đã từng trụ trì và có quan hệ với chùa Cổ Pháp như các vị Định Không, La Quý An, Vạn Hạnh, Thưởng Chiếu, Lý Nhân Tông để nhân dân khắc lên nóc chùa và câu đầu Tam bảo. Ngày 19 tháng 6 năm đó, Hòa thượng Thích Thanh Tứ - Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự giáo hội Phật giáo Việt Nam đã về Đại Đình cùng nhân dân đặt nóc chùa. Sau đó ngày 20 tháng 2 năm Kỷ Mão (1999) Hòa thượng Thích Thanh Từ từ Đà Lạt ra thăm chùa. Đến ngày 17 tháng 3-1999, Hòa thượng Thích Thanh Sam, Chủ tịch Hội Phật giáo tỉnh Bắc Ninh đã giúp nhân dân Đại Đình làm lễ an vị Phật.

Ngôi chùa hiện nay vẫn nằm trên nền đất cũ của chùa xưa với diện tích 2.236 m2. Chùa gồm nhiều hạng mục công trình. Từ đường 179 nhìn vào là một cái giếng lớn hình chữ nhật rộng khoảng 30 m2, thành giếng được kè đá. Cạnh giếng lớn là giếng nhỏ đường kính khoảng 1 mét. Tương truyền rằng nước giếng này xưa đã được dùng để tắm cho Lý Công Uẩn khi còn nhỏ ngài sống ở đây. Nền giếng đã được lát gạch sạch sẽ. Tiếp đến là tam quan hai tầng, tầng trên dùng làm gác chuông, dưới là cổng chùa (xem ảnh) Tam quan này do vợ chồng ông bà Vũ Duy Tiến và Phạm Thị Xuân Lan cung tiến năm 2004. Sân chùa rộng gần 300 m2 mới được lát gạch đỏ. Hai bên tả hữu là hai ngôi nhà cấp 4, một ngôi 4 gian, một ngôi 3 gian nguyên là lớp học cũ của trường Tiểu học được tạm dùng làm nhà ở của nhà sư và nhà tiếp khách. Chùa chính gồm 7 gian ngoài và 3 gian tam bảo (kết cấu hình chuôi vồ) được xây dựng từ mùa xuân Mậu Dần (1998). Trong chùa có nhiều tượng Phật như tượng bà Phạm Thị Triêu Dung (ảnh) và nhiều hoành phi câu đối sơn son thếp vàng rất mới, ví dụ như câu: “Địa linh dưỡng dục danh nhân kiệt/Thiên định sinh thành nghiệp đế vương” (Nghĩa là: Đất thiêng nuôi dạy người kiệt xuất/Trời định sinh ra bậc đế vương). Ngay trước cửa chùa chính, tọa lạc một pho tượng Phật bà quan âm cao 7 mét trên tòa sen (ảnh) do nhà sư Thích Minh Quyết ở Việt Yên (Bắc Giang) tặng cuối năm 2007.

Qua một thời gian dài loạn ly biến động, nhân dân Đại Đình với ý thức bảo tồn văn hóa dân tộc và quê hương, họ đã giữ lại được 13 pho tượng cổ và một quả chuông. Đáng quý là trên nền đất cũ của chùa vẫn còn một cây mít ước chừng 300 tuổi. Từ sau ngày chùa được trùng tu đến nay, cây mít được hồi sinh đâm chồi nảy lộc, ra nhiều quả ngon.

Năm 2007 sư thầy Thích Đàm Dung về đây trụ trì thì mới hợp cảnh, hợp người, chùa thường có khách đến thăm và tuần tuần tiết tiết dân làng vẫn đến dâng hương lễ Phật.
 

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Re: Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« Trả lời #2 vào: Tháng Tám 12, 2008, 09:54:10 AM »
Đình Nội Viên và truyền thuyết Sơn Thần



Thôn Nội Viên thuộc xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du, nằm ở phía Bắc sông Đuống giữa một vùng đồng ruộng, bờ bãi, đầm hồ bằng phẳng và bao bọc xung quanh là những dãy núi cổ như Chè, Dọc, Dạm, Và… Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Nội Viên từ lâu đời đã có cư dân sinh cơ lập nghiệp tạo dựng làng quê trù phú và văn hiến. Bề dày lịch sử và văn hiến của Nội Viên đã được hội tụ kết tinh ở hệ thống di tích đình, chùa cổ kính thâm nghiêm. Trong đó, ngôi đình làng đã ghi lại dấu ấn về cuộc kháng chiến chống Tống của dân tộc ta ở thế kỷ XI.

Đình Nội Viên thờ “Sơn Thần”. Đền thời Lê Trung Hưng được xây dựng lại với quy mô lớn, chạm khắc tứ linh tứ quý lộng lẫy. Nhưng ngôi đình cổ đó bị phá trong kháng chiến chống Pháp. Những năm gần đây, nhân dân địa phương phục dựng nhằm làm nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng làng xã. Giá trị nổi bật của đình Nội Viên là những cổ vật còn được bảo lưu, trong đó có cuốn Thần tích chữ Hán có niên đại gốc “Hồng Phúc nguyên niên” (1572), được sao chép lại năm “Khải Định 4” (1924), nội dung phản ánh phần nào về danh tướng Lý Thường Kiệt và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống năm 1077.

Vào thời vua Lý Nhân Tông, trước âm mưu xâm lược của giặc Tống, nhà vua đã cho họp triều đình để bàn kế đánh giặc. Thái úy Lý Thường Kiệt được phong làm tổng chỉ huy quân đội. Ông đem quân sang đất Tống đánh phá các căn cứ quân sự của chúng ở Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm; sau đó rút quân về nước lập phòng tuyến sông Như Nguyệt để kháng chiến chống Tống. Khi ấy, trên đường tiến quân về phía Bắc, đến trang Nội Viên, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc thì gặp giặc Tống và giặc Chiêm Thành cùng hợp quân tiến theo đường thủy tiến đánh vào nước ta. Lý Thường Kiệt cho quân chặn đánh. Trên đường tiến quân bỗng thấy một mãnh hổ rất lớn tiến đến hét lên một tiếng rồi chạy vào ngôi miếu bên rừng cạnh đó biến mất. Lý Thường Kiệt lấy làm lạ bèn hội họp quân sĩ đóng trại nghỉ tại đó. Đêm ông vào miếu làm lễ cầu Thần xin âm phù đánh thắng giặc. Cùng đêm đó, ông mơ thấy một cụ già hình dáng cổ quái từ miếu cổ đến nói rằng: “Ta vốn là dòng dõi Lạc Long Quân, hiện hình là Mãnh Hổ Sơn Thần, vâng mệnh thiên đình làm Bản cảnh thành hoàng trấn giữ tại trang khu và ngự ở ngôi miếu này. Ta có khả năng trừ tà, giáng phúc, duệ hiệu của ta là Tài trí hùng uy Sơn Thần. Nay thấy tướng quân đi đánh giặc đến trú ở đây, lại làm lễ cầu đảo xin âm phù, nên ta sẽ giúp đánh thắng giặc, để sau này cùng lưu danh thơm đến muôn đời”. Ông lão nói xong thì biến mất. Hôm sau, Lý Thường Kiệt họp các bô lão trang khu lại hỏi chuyện: “Trang khu các cụ thờ một Sơn Thần Mãnh Hổ phải không?”. Các bô lão đều tâu rằng: “Quả đúng như vậy, trang khu chúng tôi theo tiền nhân phụng thờ một vị Sơn Thần rất linh thiêng”. Ông nghe vậy liền ban cho các bô lão trang khu hai thỏi vàng để sửa lễ tạ thần và ngay sau đó tiến quân đi đánh giặc. Khi thắng trận trở về, ông bèn tâu với vua về việc thần phù ở trang Nội Viên rằng: “Dẹp được giặc Tống và giặc Chiêm Thành cũng là nhờ sự trợ giúp âm phù của Thần”. Nhà vua bèn ban sắc phong cho Thần ở trang Nội Viên và lệnh cho nhân dân địa phương phải phụng thờ Thần. Từ đó về sau, Thần nhiều lần linh hiển giúp các triều vua và đều được ban tặng sắc phong và mỹ tự.
 

Đã thoát ra Manga4vn

  • Lữ hành cấp 3
  • ***
  • Bài viết: 632
    • Diễn đàn hội du lịch
Di tích - di sản văn hóa - Bắc Ninh
« vào: Tháng Tám 12, 2008, 09:49:17 AM »
Những bài viết trong topic này đều thuộc bản quyền UBND tỉnh Bắc Ninh


Văn miếu Bắc Ninh - Điểm du lịch văn hóa truyền thống đặc sắc



Sức hút từ văn hoá truyền thống chính là thế mạnh đầy tiềm năng để phát triển ngành du lịch Bắc Ninh. Một trong số những di tích lịch sử văn hoá có giá trị tiêu biểu, phản ánh rõ nét nhất truyền thống khoa bảng vẻ vang vùng đất Kinh Bắc chính là Văn miếu Bắc Ninh. Văn miếu Bắc Ninh nổi tiếng với 677 vị tiến sĩ của xứ Kinh Bắc (chiếm gần một phần tư tổng số tiến sĩ cả nước) được ghi danh. Với những giá trị vật thể và phi vật thể còn tồn tại của Văn miếu Bắc Ninh đã khẳng định truyền thống hiếu học của lớp lớp các thế hệ con người quê hương Kinh Bắc. Chúng ta có quyền tự hào vì quê hương mến yêu có bề dày truyền thống sinh thành, nuôi dưỡng: “Một giỏ ông Đồ/ Một bồ ông Cống/Một đống ông Nghè/ Một bè Tiến sỹ/Một bị Trạng nguyên/Một thuyền Bảng nhãn”.

Văn miếu Bắc Ninh được khởi dựng tại vùng sơn phận Thị Cầu thuộc tổng Đỗ Xá huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc vào thời Lê Sơ, cách đây hàng trăm năm trước. Cùng với sự thăng trầm phát triển của đất nước, Văn miếu Bắc Ninh cũng trải qua rất nhiều lần tu bổ, tôn tạo và chuyển đổi vị trí. Năm 1893, Văn miếu được xây dựng trên đỉnh núi Phúc Sơn thuộc xóm 10 (Phường Đại Phúc – TP Bắc Ninh). Tổng thể công trình Văn miếu gồm: Tiền Tế (5 gian), Hậu Đường (5 gian) hai bên hồi Hậu Đường là Bi Đình (3 gian), hai bên hồi Tiền Đường là Hội Đồng trị sự và Tạo Soạn; hai bên sân trước Tiền Tế là nhà Tả Vu, Hữu Vu; chính diện có bia bình phong “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn miếu bi ký” khắc dựng năm 1928. Toàn bộ công trình được xây dựng bằng gỗ lim được bào trơn đóng bén. Tại đây thờ Khổng Tử, Tứ Phối và 12 tấm bia lưu danh 677 vị tiến sĩ quê hương Kinh Bắc (bao gồm cả Bắc Ninh, Bắc Giang và một số xã sau này nhập về huyện Gia Lâm, Đông Anh thuộc Hà Nội và Văn Lâm, Văn Giang thuộc Hưng Yên).

Có thể nói nét đặc sắc nổi trội trong số toàn bộ những giá trị còn tồn tại của Văn miếu Bắc Ninh chính là 15 tấm bia đá. Trong đó, 12 bia “Kim bảng lưu phương” có kích thước lòng bia như nhau (110cm x70cm), trán bia cong và được trang trí lưỡng long chầu mặt trời, ở diềm bên phải của mỗi bia được khắc vị trí của bia đó trong nhà bia. Một bia phụ nhỏ có kích thước lòng bia (70cm x 40cm) khắc vào năm 1896 ghi chép lại số ruộng do các quan viên tỉnh Bắc Ninh cung tiến vào Văn miếu để làm từ điền. Một bia nhỏ nữa hiện đang được dựng ở đầu hồi phía trái trong nhà bia có tên “Trùng tu Bắc Ninh bi đình ký”có số đo lòng bia là 50cm x 30cm, dựng vào năm 1912, ghi chép việc chuyển vị trí Văn miếu từ Thị Cầu về núi Phúc Sơn. Hai tấm bia nhỏ này không có hoa văn trang trí ở trán bia. Và đặc biệt còn một tấm bia có kích thước lớn gần 10 m2, được coi là bảo vật của Văn miếu, hiện được dựng ở ngoài sân mang tên “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn miếu bi ký”, khắc vào năm Bảo Đại thứ 3 (1928). 15 tấm bia đá là những trang lịch sử văn hoá - giáo dục, những cứ liệu vô cùng giá trị giúp nghiên cứu về lịch sử của nhiều vấn đề phong phú thuộc thế hệ cha ông.

Văn miếu Bắc Ninh đã được coi là trung tâm nghiên cứu giáo dục truyền thống hiếu học của Bắc Ninh - Kinh Bắc. Chính vì thế, Văn miếu Bắc Ninh sẽ trở thành điểm du lịch văn hoá truyền thống đặc sắc nhất để du khách được tham quan, ngắm cảnh và hiểu biết sâu sắc hơn những giá trị truyền thống văn hoá, giáo dục, nghệ thuật… của con người xứ Kinh Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung  trong lịch sử cũng như hiện tại và tương lai.
 


Tags:
 

Related Topics

  Tiêu đề / Tác giả Trả lời Bài mới
1 Trả lời
4829 Lượt xem
Bài mới Tháng Tám 28, 2008, 02:12:45 PM
Gửi bởi TonTen
1 Trả lời
7062 Lượt xem
Bài mới Tháng Chín 24, 2013, 02:51:51 PM
Gửi bởi vemaybayvietmy
0 Trả lời
2459 Lượt xem
Bài mới Tháng Ba 07, 2010, 09:43:08 PM
Gửi bởi xitin
0 Trả lời
2294 Lượt xem
Bài mới Tháng Tư 29, 2014, 09:43:34 AM
Gửi bởi hayen.dulichhoanggia
0 Trả lời
1911 Lượt xem
Bài mới Tháng Tám 23, 2014, 11:50:26 AM
Gửi bởi fire_diamond1987

Hòn Móng Tay, Hòn Dăm Ngang hoặc Mây Rút 1 ngày
Tour: Ghép đoàn
1 ngày 0 đêm
0
Đặt ngay
Khám phá rừng quốc gia Bạch Mã
Tour: Ghép đoàn
1 ngày 0 đêm
0
Đặt ngay
Lặn biển Hòn Mun Nha Trang 1 ngày
Tour: Ghép đoàn
1 ngày 0 đêm
0
Đặt ngay
Tour du lịch Cần Giờ 1 ngày
Tour: Ghép đoàn
1 ngày 0 đêm
0
Đặt ngay
Tour 1 ngày: Vĩnh Long
Tour: Khám phá
1 ngày 0 đêm
0
Đặt ngay

Vui lòng tắt chặn quảng cáo (uBlock, AdBlock, Adblock Plus Adblock Pro, Ghostery ...) để giúp chúng tôi có nguồn kinh phí duy trì hoạt động. Chân thành cảm ơn!

Thông tin đăng nhập

 
 
Chào Bạn. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.

Đối tác

Topo.vn - Địa điểm du lịch

Có thể bạn quan tâm

Đối tác


Mobile View
SimplePortal