Kể từ khi Zen ở Nhật phát triển khắp thế giới , bộ môn nhiếp ảnh thiền cũng ra đời trong trầm lặng , đạo vị . Zen là sự cân bằng , chú trọng đến vật thể thực tiễn , đơn giản và tầm thường .
Người thưởng ngoạn ảnh trong phút chốc lặng yên nào đó, sẽ có một lần chợt thấy mình bỡ ngỡ vì bức ảnh mới quá, lạ quá, đơn sơ quá cơ hồ như mới thấy lần đầu. Một chân lý vi diệu vừa được khám phá. Đó là phút giây của sự bừng tỉnh, như căn phòng kín u tối đã bấy lâu được mở toang mọi cửa nẻo đón ánh sáng của một ngày mới, như ngọn đèn vừa thắp lên sau biết bao tháng năm bỏ quên lăn lóc trong bóng tối âm thầm.
Tư tưởng nhất nguyên (monism) trong thiền mang lại cho ảnh những sắc độ đậm nhạt tượng trưng cho từng mức độ hóa giải, và diễn tả một sự vật nào đó tưởng chừng vô nghĩa như gốc cây, cục đá, cành hoa, con chim trên cành, ngọn lau trĩu tuyết, một cành trúc trước gió, một hòn đá trơ trọi… nhưng lại chuyển tải được sự sống mà không cần giảng giải . Một đoá huệ nở đơn chiếc hay một cánh sen lay trong gió là hình ảnh sống động của một tâm hồn thuần phác sơ khai trong cơn giông tố cuộc đời. Một chiếc thuyền câu bé nhỏ trên mặt nước bao la cho ta ấn tượng sâu sắc hình ảnh biển cả mênh mông và sự hiện hữu một tâm hồn sâu kín hòa nhập vào cuộc sống thiên nhiên. Nghệ sĩ Zen đã phản ánh lại những khoảng khắc mà họ đã sống trong thế giới giác ngộ qua những hiện tượng trung gian : một cánh chim bay trong trời giông bão, chiếc lá trong sương thu, thác nước mơ hồ trong hoàng hôn hay bóng một con chim trơ trong rừng sâu . thảy những kỳ diệu sâu kín này lại tựu thành trong sự dung dị và không cần nổ lực nào để đạt nó .
Cái ý tưởng phóng thích bản thân nhỏ hẹp từ cuộc sống hàng ngày phê duyệt trực giác của mình hoặc mình tự cảm thấy . thi sĩ haiku Basho cảm thấy đó là một “trực quan đáng kể từ hiện thực” ( a significant intuition into Reality) . Bởi thế Basho nhìn sự vật như chính nó (the thing itself), là nó (isness), như thế đó (suchness) . Ông là một người đã giác ngộ . Nghệ sĩ nhiếp ảnh Edward Weston cũng một quan điểm như thế trong cách chụp ảnh “nhìn sự vật như chính nó” . nhịp độ cuộc sống không là gì cả để trở nên biểu trưng cho toàn thể . Chính sự sáng tạo của nhà nghệ sĩ mới tiếp nhận những nhịp điệu đó để làm cho hiệp với con người (Newhall) .
Nhiếp ảnh làm thay đổi cách nhìn với thế giới. Lĩnh vực hoạt động của nhiếp ảnh không hẹp hơn bất kỳ một ngành nghệ thuật nào khác trong các nghệ thuật tạo hình. Kỹ thuật điện tử đẩy nhiếp ảnh lên một bước tiến mới : mở rộng khoảng không sáng tạo, vĩnh cửu hóa tư liệu và nghệ thuật. Nhiếp ảnh và hội họa là hai nghệ thuật rất gần nhau. Cả hai nghệ thuật này đều đưa các vật thể từ không gian ba chiều lên mặt phẳng hai chiều và cũng đều chịu sự chi phối của những luật chung như luật phối cảnh, đường chân mây, điểm vô cực.v.v…Nhưng rõ ràng nội dung và hình thức của hai loại nghệ thuật tạo hình này hoàn toàn khác nhau.
Nội dung tác phẩm nghệ thuật không chỉ là đối tượng thể hiện, hay đề tài mà chính là cái đẹp có trong tác phẩm đó. Còn hình thức là sự diễn tả nội dung thực tại qua vật liệu chính của loại hình nghệ thuật đó. Nói cách khác hình thức của tác phẩm nghệ thuật là hệ thống tín hiệu khác nhau dùng để tiếp nhận, biểu thị và truyền đạt cho người xem (nếu là nghệ thuật tạo hình), người nghe, người đọc (văn học)… Nhiệm vụ của nhà nhiếp ảnh là phải xác định cho được nội dung của tác phẩm, để từ đó có hình thức trình bày thích hợp. Đối với nhiếp ảnh thiền, trong nội dung hình tượng bao giờ cái khách quan cũng được đặt lên trên cái chủ quan. tức thị đối tượng biểu đạt bao nhiêu vẽ đẹp, thì nhà nhiếp ảnh chỉ có thể biểu thị bấy nhiêu vẽ đẹp. Nhiếp ảnh gia không cần hình dong xem đối tượng của mình sẽ như thế nào, bối cảnh, môi trường sẽ ra sao… Vẫn biết rằng những nhân tố này góp phần biểu thị tư tưởng, tình cảm, nội tâm của tác giả (ngoại trừ cảnh lắp ghép, xử dụng phần mềm photoshop). Nói cách khác , sự trình diễn.# của nghệ sĩ nhiếp ảnh được tìm ngay trong cuộc sống, trong hiện thực khách quan : những hiện tượng , sự kiện , giây phút nào thể hiện được tư tưởng, tình cảm và thái độ của nghệ sĩ đối với ngoại giới. Ý muốn sáng tác của nhà nhiếp ảnh không định trước, mà phụ thuộc vào đối tượng khi tìm thấy sự kiện, sự vật hấp dẫn đến mức độ nào, chứ không phụ thuộc hoàn toàn vào trạng thái, tâm hồn mà nhà nghệ sĩ muốn thể hiện lúc đó.
Điều này xảy ra ngay trong lúc phát sinh ý xây dựng tấm ảnh thiền. nghĩa là lúc một hiện tượng cuộc sống nào đó ăn khớp với trực quan của nhà nhiếp ảnh và thôi thúc tác giả xây dựng tác phẩm . Nhà nghệ sĩ coi hiện tượng đó như hình thức có nội dung, một thứ có sức truyền cảm. Bởi trong hiện tượng này ẩn ý có tư tưởng và xúc cảm. Ý nghĩa đó được khám phá qua cái vẻ bên ngoài của nó, mà nhà nghệ sĩ đã nhìn thấy.
Đối với ảnh thiền, lối bố cục có tiết điệu mang tính độc đáo riêng, không phải bản thân ảnh tạo ra được nhịp điệu. tiết điệu đó sẵn có trong tự nhiên. Vấn đề quan trọng là nhà nhiếp ảnh phát hiện ra được và đánh giá được nhịp điệu đó. chả hạn bức ảnh chụp những chú chim sâu đậu rải rác trên những sợi dây thép, tạo ra như những nốt nhạc, rất có nhịp độ. Một bức ảnh dù đạt nghệ thuật cao, nhưng thoát ly thực tế, cách biệt cuộc sống, thì giá trị bức ảnh đó không đáng giá, nó chỉ còn là một trò chơi ánh sáng. Đó cũng là lý do tại sao dòng thiền phải loại ra khỏi nghệ thuật ảnh thiền những cái gọi là tác phẩm, mưu toan dùng những kỹ xảo khác nhau để “phóng thích” ảnh nghệ thuật ra khỏi “xiềng xích” của sự chân thật .
Ảnh thiền phải có các thuộc tính sau :
– Bất đối xứng (Fukinsei ) : Hình ảnh gắn liền với một bất đối xứng nhẹ . Sự phá vỡ đối xứng không phải là một sự phá vỡ hoàn toàn đối xứng ban đầu để đi đến hỗn độn mà là một sự phá vỡ nhất quyết xảy ra trên nền đối xứng cơ sở ban đầu. Nếu tự nhiên là hiện thân của sự sống, của cái đẹp thì sự vi phạm đối xứng phải là một dấu hiệu tất yếu của sự sống và cái đẹp. Sự đối xứng tuyệt đối chỉ là nguyên lý.
– Giản dị (Kanso) : Hình ảnh đơn giản , loại bỏ những gì không cấp thiết , tránh những cấu trúc rối mắt, màu sắc lòe lẹt .
– Chân phương (Koko) : Giảm bít tất mọi chi tiết rườm rà, chỉ giữ lại cái tinh tuý của ảnh chính .
– thiên nhiên (Shizen) : bản tính của Zen là thô , bởi vậy ảnh không chỉnh sửa , để thiên nhiên .
– Sâu kín (Yugen) : Phải để ảnh lắng đọng trong sâu kín , huyền hoặc , và một khoảng bóng tối. Chẳn hạn một đường nét gợi ý sự mềm dịu của mặt trăng trên bầu trời .
– Tự do (Datsuzoku) : Ảnh chụp không gò bó theo một nguyên tắc nào . Tự do lựa chọn đề tài , hình ảnh được ghi lại chợt , không có thành kiến trước . yếu tố bất thần và đặc tính sửng sốt là bí quyết của ảnh thiền .
– Im lặng (Seijaku) : Hướng về nội tâm , vắng lặng và trơ trẽn . Toàn ảnh đắp trong yên ắng tuyệt đối giống như sự nín thinh của những hạt bụi , buổi bình minh , thời gian cuối thu hay đầu xuân …
Nghệ thuật của ảnh thiền là dùng kỹ thuật để ghi lại những hình ảnh và gợi lên sự giác ngộ . Nhiếp ảnh gia hay Nhà thơ haiku đều cùng chung một nguồn . Nghệ sĩ người Pháp Henri Cartier Bresson cũng nói : "Khi tôi vẽ cùng lúc với tư duy , mọi thứ đều mất" ( Berger) . Sức mạnh của trực giác như là một kết nối giữa thiền và nhà nghệ sĩ . hồ hết nghệ thuật là nhận thức từ trực giác , một nhận thức trực tiếp sâu sắc và không phải là một sản phẩm của sự phân tích . Tóm lại khi đang từng ảnh để chụp là phải theo xúc cảm cho đến khi bạn có thể "nghe ánh sáng hát". Ðó là một hiện tượng trực quan và đó cũng là thời khắc để ghi lại trên ảnh .
Có nhiều con đường để đi đến giác ngộ . Ngộ cũng có thể phê duyệt bắn cung , thơ haiku , tranh thiền hoặc đương đại hơn là ảnh thiền . Chẳn hạn khi Buber chụp một mảnh mi ca nằm trên đường vì chợt thấy ánh sáng phản ánh từ vật vô tri đó khiến nhà nghệ sĩ chứng ngộ rằng giữa ta và người có mối quan hệ với tấm mi ca , đúng lúc ấy Buber quên hẳn chủ thể và đối tượng , ông ngay lập tức ghi hình ảnh đó vào máy . thành thử đám mây, vỏ cây ,vỏ sò , đá sỏi … đều nằm trong quờ ảnh , đó là cuộc sống và đáng để nhà nghệ sĩ ghi hình .
Bước vào cõi ảnh thiền là bước vào thế giới u mặc đầy gợi ý. Người nghệ sĩ ảnh thiền muốn gởi cho mọi người một thông điệp ẩn tàng qua những hình ảnh đơn sơ đời thường tưởng chừng bất nghĩa nhưng lại có tính cách đánh tháo linh tính. Trong chừng mực nào đó ảnh thiền có thể xem là một công cụ chứng ngộ. Chức năng của ảnh thiền gắn với chức năng của công án thiền.