
Từ thị trấn Nhà Bàn (huyện Tịnh Biên, An Giang) đi về hướng Lâm Viên Núi Cấm chừng 8 km thì tới xã Văn Giáo. Rẽ trái theo con đường đất cát đi vô tới ấp Srây-Skoth là gặp làng lụa Khơme. Làng lụa Khơme hồi sinh cùng một người con gái Khơme mang tên: Nàng Nhây.
Nàng Nhây ươm tơ dệt lụa
Nàng Nhây tên thật là Neáng Nhây, xuất thân từ một gia đình có nội tổ làm nghề dệt. 15 tuổi Nàng Nhây đã được bà ngoại và mẹ dạy cho nghề ươm tơ dệt lụa. Lớn lên, cô gái Khơme này trở thành một nghệ nhân tài hoa trong làng. Dì Samone, bạn dệt của Nàng Nhây thuở nhỏ, kể: Cái khuôn bông dâu thông thường phải "bắt" hàng tháng trời mới xong, Nàng Nhây chỉ mất có ba ngày. Tấm lụa của Nàng Nhây dệt không thể chê vào đâu được. Thuở còn thịnh, lụa Nàng Nhây nổi tiếng tận Nam Vang (Campuchia)".
Nghề dệt của người Khmer Srây-Skoth có từ khoảng gần 100 năm nay. Nhờ có vùng đất giồng cát dưới chân núi và nguồn nước xanh trong trời cho, người dân ở đây đã phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm và ươm tơ dệt lụa. Nghề dệt ngày xưa thịnh lắm, nhà nào cũng có 2-3 cái xa quay khung cửi sầm sập suốt ngày. Lụa làm ra phần lớn được bán ở Nam Vang. Lụa Khmer óng ả mềm mại và mặc mát. Dưới ánh mặt trời, mình lụa tựa như có ánh hào quang, phù hợp với sở thích người Khmer vốn sùng đạo Phật. Dì Samone cho biết khi người con gái Khmer khoác tấm lụa lên người, ngoài việc được tôn thêm vẻ đẹp, họ còn có cảm giác được đức Phật che chở nên thêm vững tin trong cuộc sống.
Năm 1979, chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra khiến nương dâu tiêu điều, nong tằm tan hoang, khung dệt lẻ loi. Cho tới những năm 80, nghề dệt coi như xóa sổ. Những nghệ nhân làng dệt chuyển sang sống bằng nghề làm ruộng, rẫy. Trước tình cảnh đó, Nàng Nhây quyết khôi phục nghề dệt. Nàng lôi khung dệt ra lau chùi mạng nhện, đóng lại xa quay, gửi người qua Nam Vang mua thuốc nhuộm. Rồi nàng bắt đầu dạy nghề cho ba cô con gái của mình.
Năm 1992 người dân Khmer vùng biên giới Tịnh Biên, Tri Tôn vui mừng thấy những tấm lụa của làng Srây-Skoth xuất hiện trở lại. Giá lại rẻ từ 150.000-200.000 đồng/tấm. Sau một thời gian dài, các cô gái Khmer lại-xúng xính trong bộ xà rông mình lụa Srây-Skoth. Cứ vậy lụa Nàng Nhây bắt đầu có mặt trong cộng đồng người Khmer ở Việt Nam. Những năm 1994-1998 lụa Nàng Nhây đã được bán rộng rãi ở Sóc Trăng, Trà Vinh.
Nhiều nghệ nhân của làng Srây-Skoth cũng khôi phục lại nghề canh cửi. Đến năm 1998 cả làng có 12 nghệ nhân, trong đó phải kể những nghệ nhân có hàng chục năm tay nghề như Neáng Kim Lương, Samone, Neáng On...
Thương hiệu Silk Khmer
Năm 1999, qua Hội Phụ nữ tỉnh An Giang, Tổ chức CARE tại TP. Hồ Chí Minh đã biết đến làng nghề này và hỗ trợ vốn ban đầu cho 36 chị em Khơme khôi phục sản xuất. Các thợ giỏi được đi học tập kinh nghiệm về cách nhuộm tơ, kỹ thuật xả tơ sao cho không phai màu, tăng độ mướt và không bị sùi lông. Kết hợp, giữa phong cách truyền thống và kỹ thuật hiện đại, lụa Khmer càng đẹp, càng bền hơn. Nhiều người Campuchia khi được bà con Khmer ở An Giang cho xem lụa Srây-Skoth đã hết sức bất ngờ khi thấy lụa ở đây ăn đứt làng chính gốc Campuchia. Nguyên do là lụa Campuchia thường nhuộm bằng hóa chất trước khi dệt nên dễ bị cứng và không bền. Trong khi đó lụa Khmer Việt Nam được nhuộm bằng các loại dược thảo theo phương pháp cổ truyền nên màu sắc không phai mà càng mặc càng óng ả. Điều độc đáo hơn cả là các nghệ nhân đã áp dụng kỹ thuật dệt ba lớp tơ với ba màu khác nhau trên cùng một mình vải, làm cho người mặc tấm lụa khi đứng có màu xanh, lúc ngồi lại ngả sang màu đỏ, lúc nhìn nghiêng thì có màu cam. Cuối năm 1999, lụa Srây-Skoth bắt đầu được xuất khẩu qua Campuchia với thương hiệu silk Khmer.
Kỹ thuật dệt lụa Nàng Nhây cũng có những nét rất độc đáo. Lụa dùng cho trang phục thường được dệt những hoa văn hình vuông, tròn hoặc đa giác đều (người dân quen gọi là "bắt bông trơn". Lụa dùng làm thảm, rèm, bức trướng... dệt khó hơn nhiều với kỹ thuật "chằng hung" (mà người dân quen gọi bắt bông dâu). Thường các chùa thích những bức rèm có hoa văn hình voi, ngựa, rồng....những linh vật của người Khmer.